Sunday, May 28, 2017

Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Điềm Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh

(1930- 1975)
Số Quân 50/200.102
Sinh tháng 8 năm 1930 tại Thừa Thiên.

1953: Theo học khóa 4 Cương Quyết Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức.
1954: Tốt nghiệp cấp bậc Thiếu Úy.
1956: Ngày 1 tháng 6 thăng cấp Trung Úy
1963: tháng 8 thăng cấp Đại Úy. Trưởng Phòng 2 Sư Đoàn 1 Bộ Binh.
1968: Tháng 6, Thiếu Tá Trung Đoàn Phó Trung Đoàn 1 Sư Đoàn 1 Bộ Binh.
1969: Ngày 1-1 thăng Trung Tá Nhiệm Chức.
1970: Tháng 10 thăng Đại Tá Nhiệm Chức.
1971: Tháng 12 Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 1 Bộ Binh.
1972: Ngày 19 tháng 9 Xử Lý Thường Vụ Sư Đoàn 1 Bộ Binh.
1973: Ngày 1-11, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh.
1974: Vinh thăng Chuẫn Tướng Nhiệm Chức.
1975: 28 tháng 3 Kiêm Quân Trấn Trưởng Quân Trấn Đà Nẵng.
29 tháng 3: Trong chuyến trực thăng UH1 H bay từ Non Nước Đà Nẵng lúc hoàng hôn di tản về Quy Nhơn Bình Định vì chở nặng bay trong đêm sương mù nên trực thăng bay ven biễn. Bay đến địa phận huyện Bình Sơn Quảng Ngãi, trực thăng chao đảo cánh quạt chạm nước gây tại nạn. Trên trực thăng chở hơn 10 người, gồm Chuẩn Tướng Điềm cùng một số Sỉ Quan Tham Mưu Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Trong số có 1 Thượng Sĩ Y Tá của Phi Đoàn cùng vợ và 3 con nhỏ đều mất tích. Một người duy nhất sống sót là Trung Tá Lê Ngọc Bình trưởng phi cơ và cũng là Phi Đoàn Trưởng Phi Đoàn 257 (tản thương). Khi mất tích Chuẩn Tướng Điềm 45 tuổi.
2011: Ngày 2 tháng 10 Gia đình Tướng Điềm đã tìm ra hài cốt tại địa điểm sát bờ biển Lá Ngải, thôn An Hải, xả Bình Châu, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
Khi khai quật ngôi mộ hài cốt Tướng Điềm còn 1 thẻ bài và một lá bùa trong túi áo). Ngoài Tướng Điềm còn có các thi hài Đại Tá Võ Toàn ( còn thẻ bài và 1 nhẩn cưới). Một Thiếu Úy phi công với cấp bậc trên áo bay. Một thi hài phu nữ và một em bé.

        Tướng Điềm, Thế Trận Sư Đoàn 1bb Tuyến Tây Nam Huế
Tác giả : Vương Hồng Anh
* Tướng Nguyễn Văn Điềm và Sư đoàn 1 BB
Như VB đã trình bày trong loạt bài viết về chiến trường Trị-Thiên, từ mùa hè 1972 đến tháng 3/1975, Sư đoàn 1 Bộ binh dưới quyền 3 vị Tư lệnh kế tiếp nhau: thiếu tướng Phạm Văn Phú, chuẩn tướng Lê Văn Thân, chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm, đã giữ vững phòng tuyến Tây Nam Huế, vô hiệu hóa hoạt động của 324B CSBV và 3 Trung đoàn của B5 tăng cường. Riêng với chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm, vị Tư lệnh cuối cùng của Sư đoàn 1 Bộ binh (BB), đã sát cánh cùng quân sĩ của sư đoàn này từ khi cuộc chiến Hè 1972 bùng nổ đến những ngày cuối của tháng 3 qua các chức vụ: Tư lệnh phó rồi Tư lệnh Sư đoàn 1 BB.Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm, xuất thân khóa 4 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức (cùng khóa với trung tướng Ngô Quang Trưởng), đã phục vụ tại Sư đoàn 1 BB từ khi còn là một sĩ quan cấp úy, và đã trải qua các chức vụ chỉ huy từ cấp đại đội, tiểu đoàn, Trung đoàn rồi sư đoàn. Ông được thăng trung tá vào đầu năm 1969 khi đang giữ chức Trung đoàn phó Trung đoàn 1 BB, đến giữa năm 1969, ông được cử giữ chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn nói trên và thăng đại tá vào tháng 10/1970. Từ đầu năm 1972 đến tháng 10/1973, ông là Tư lệnh phó Sư đoàn 1 BB, trong thời gian này, ông đã từng đảm nhiệm chức vụ Xử lý thường vụ Tư lệnh Sư đoàn 1BB trong tháng 9 và tháng 10/1972 thay tướng Phạm Văn Phú nghỉ dưỡng bệnh. Tháng 11/1973, ông trở thành Tư lệnh Sư đoàn 1 BB và được thăng chuẩn tướng vào đầu tháng 4/1974. Cuối tháng 3/1975, ông bị tử nạn trực thăng khi đang điều động quân sĩ Sư đoàn 1 BB triệt thoái khỏi Quân khu 1.Sau đây là bài tổng lược về thế trận của tướng Điềm và Sư đoàn 1 BB trong mùa Hè 1972. Phần này được biên soạn dựa theo chiến sử của Sư đoàn 1 BB, bài viết của trung tướng Ngô Quang Trưởng dành cho Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ và tài liệu riêng của VB.
* Tư lệnh phó Nguyễn Văn Điềm, thế trận Sư đoàn 1 BB tại Tây Nam Huế
Vào tháng 4/1972, trong khi lực lượng bộ chiến của Sư đoàn 3 Bộ binh, hai lữ đoàn Thủy quân Lục chiến, hai liên đoàn Biệt động quân, lữ đoàn 1 Thiết Kỵ, các đơn vị tăng phái đang nỗ lực ngăn chận 3 sư đoàn CSBV ở mặt trận Quảng Trị, tại chiến trường phía Tây và Tây Nam Thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên, 3 Trung đoàn 1, 3 và 54 BB đã liên tục giao tranh với ba Trung đoàn của sư đoàn 324 CSBV, được tăng cường 1 Trung đoàn của sư đoàn 304 CSBV. Tư lệnh Sư đoàn 1 BB lúc bấy giờ là thiếu tướng Phạm Văn Phú đã cùng với Tư lệnh phó Nguyễn Văn Điềm thay nhau đến các mặt trận để trực tiếp điều động quân sĩ.Khi trận chiến xảy ra, cụm tuyến phòng thủ của 3 Trung đoàn thuộc Sư đoàn 1 BB chạy dài từ căn cứ Evans (Hòa Mỹ) ở phía Bắc Thừa Thiên, nơi Trung đoàn 1 BB đặt bộ chỉ huy hành quân, chạy về hướng Tây Nam đến căn cứ hỏa lực Rakkasan, rồi vòng về hướng Đông Nam đi qua căn cứ hỏa lực Bastogne (Phú Xuân) và căn cứ Chekmate (cao điểm 342), bắt tay với căn cứ hỏa lực Birmingham (Bình Điền) nơi đặt bộ chỉ huy hành quân của Trung đoàn 54 Bộ binh, di chuyển từ căn cứ La Sơn lên. Cùng lúc đó, Trung đoàn 3 Bộ binh, bộ chỉ huy đặt tại căn cứ An Đô, là lực lượng trừ bị được phối trí phòng thủ theo chiều sâu của cụm phòng tuyến.
* Tư lệnh phó Nguyễn Văn Điềm và cuộc hành quân giải tỏa áp lực CSBV vào mùa Hè 1972
Trong tuần lễ đầu của tháng 4/1972, Cộng quân áp lực nặng căn cứ Bastogne (do tiểu đoàn 2/54 phòng ngự) và căn cứ Checkmate do tiểu đoàn 1/54 án ngữ. Từ tuần lễ thứ hai, việc tiếp tế bằng đường bộ cho hai căn cứ này đã bị địch chốt chận, chỉ còn nhờ vào các phi đội trực thăng, tiếp tế theo chu kỳ 5 ngày/1 lần. Ngày 11 tháng 4/1972, để giải tỏa áp lực của CQ, bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 BB đã sử dụng Trung đoàn 1 BB làm lực lượng xung kích để mở cuộc phản công tiếp ứng Trung đoàn 54 BB. Do phải thường xuyên bay chỉ huy điều động cả 3 Trung đoàn trên toàn mặt trận, thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Sư đoàn 1 BB, đã phân nhiệm cho Tư lệnh phó Nguyễn Văn Điềm trực tiếp đôn đốc cánh quân trung đoàn 1 BB mà trung đoàn trưởng lúc bấy giờ là trung tá Võ Toàn.Theo kế hoạch, Trung đoàn 1 BB nỗ lực giải tỏa áp lực của Cộng quân trên tỉnh lộ về hướng Tây. Trong khi khai triển lực lượng, Trung đoàn 1 BB đã đụng độ dữ dội với các đơn vị của Trung đoàn 24 CSBV. Trung đoàn CSBV này đã thiết lập cụm kháng cự liên hoàn với các chốt cố thủ kiên cố để chịu được các trận Không tập của B 52 và pháo tập của Pháo binh Sư đoàn 1 BB.Được sự yểm trợ mạnh mẽ của Không quân và Pháo binh, lực lượng Trung đoàn 1 BB cố tung các đợt tấn công để đánh bật địch, nhưng đã gặp sự kháng cự mạnh của Cộng quân. Từ vận động chiến, các đơn vị của Trung đoàn 1 BB chuyển đổi thế đánh. Từng trung đội cố tiến sát về các cụm chốt của địch, sử dụng cận chiến và lựu đạn để triệt hạ các ổ kháng cự. Tuy nhiên, những nỗ lực này đã bị hạn chế về kết quả do sự bố phòng dày dặc của địch và hỏa lực chống trả rất mạnh của đối phương. Trước cuộc diện của trận địa, bộ chỉ Trung đoàn 1 BB cho lệnh các đơn vị tiến chiếm một số cao điểm để bố trí quân, dàn trận, để từ đó khởi động các cuộc tấn công kế tiếp sau các đợt không yểm.Cùng với sự khống chế trục lộ 547, Cộng quân đã mở trận địa pháo hỏa công các vị trí bãi đáp cho trực thăng, đồng thời pháo dữ dội vào căn cứ Phú Xuân và cao điểm 342 khiến số thương vong của quân trú phòng gia tăng mỗi ngày, hoạt động tản thương đã bị trở ngại lớn, các chuyến tiếp tế bằng trực thăng và bằng vận tải cơ thả dù cũng ít khi thành công do hỏa lực phòng không của địch quanh các căn cứ. Hai tuần lễ cuối cùng của tháng 4/1972, tất cả 5 tiểu đoàn của Sư đoàn 1 BB phòng thủ trên cụm tuyến phía Tây dù đã bị tổn thất khá cao, nhưng các đơn vị này vẫn giữ vững tuyến phòng ngự. Hoạt động không trợ của Không quân Việt Mỹ đã được gia tăng để bảo vệ các tiền cứ khỏi bị Cộng quân tràn ngập bởi các cuộc tấn công cường tập.
* Cuộc tấn công tái chiếm các tiền cứ trọng điểm
Trước diễn biến của cuộc diện chiến trường, thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Sư đoàn 1 BB đã cho tái phối trí lực lượng như sau: bộ Chỉ huy Hành quân của Trung đoàn 1 BB được lệnh di chuyển đến căn cứ Cát Hữu ở phía Đông Nam Hòa, nằm gần trục lộ từ quận này về Huế; bộ Chỉ huy chính Trung đoàn 54 BB được rời căn cứ Bình Điền về hậu cứ Trung đoàn để chuẩn bị tái chỉnh trang hai tiểu đoàn 1/54 và 2/54 bị tổn thất nặng trên đường triệt thoái; bộ Chỉ huy nhẹ của Trung đoàn này do Trung đoàn phó chỉ huy tiếp tục đóng tại Bình Điền để điều động hai tiểu đoàn 3/54 và 4/54, hợp lực cùng với 4 tiểu đoàn của Trung đoàn 1 BB giữ vững tuyến Tây Nam Huế. Chỉ huy tổng quát cụm tuyến Tây Nam Huế là tư lệnh phó Nguyễn Văn Điềm.
Ngay sau khi di chuyển toàn bộ Trung đoàn vào trận địa mới, bộ chỉ huy Trung đoàn 1 BB được lệnh chuẩn bị cuộc phản công tái chiếm căn cứ Bastogne và Checkmate, đồng thời xây dựng các cụm điểm án ngữ ngăn chận các đơn vị của sư đoàn 324 B CSBV đang cố xâm nhập vào quận Nam Hòa để tiến về đồng bằng Thừa Thiên.
Để có hỏa lực cơ hữu yểm trợ trực tiếp cho các đơn vị, Trung đoàn 1 BB đã cho thành lập các pháo đội súng cối 81 ly. Theo đó, các súng cối của các tiểu đoàn thường ít khi sử dụng đã được tập trung lại để thành lập các pháo đội do Đại đội Chỉ huy Công vụ Trung đoàn hoặc ố quân nhân hậu cứ phụ trách. Mỗi pháo đội có khoảng từ 8 đến 12 khẩu súng cối 81 ly được phối trí để có thể tác xạ tập trung cùng một lúc. Theo đề nghị của bộ chỉ huy Trung đoàn và của Tư lệnh phó Nguyễn Văn Điềm, bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh đã ưu tiên cung cấp cho các pháo đội súng cối này mỗi ngày từ 2 đến 5 ngàn quả đạn. Các khẩu đội súng cối được đưa đến sát trận địa, tác xạ nhanh và chính xác, đã là nguồn hỏa lực mạnh, yểm trợ hữu hiệu cho các đơn vị của Trung đoàn trong các trận giao tranh với địch quân.Sau khi đã tổ chức cụm tuyến phòng thủ bảo vệ vững vàng vòng đai Huế ở hướng Tây Nam, giữa tháng 5/1972, dưới sự đôn đốc của tư lệnh phó Nguyễn Văn Điềm từ trên trực thăng chỉ huy, toàn bộ Trung đoàn 1 Bộ binh và thành phần tăng phái đã khởi động cuộc phản công tái chiếm các căn cứ ở phía Tây. Ngày 15/5/1975, một biệt đội cảm tử đã hành quân trực thăng vận nhảy xuống Bastogne, tái chiếm căn cứ này. Một tuần sau, bộ chỉ huy Trung đoàn 1 BB điều động 2 tiểu đoàn từ hai hướng tấn công tái chiếm căn cứ Checkmate. Cuộc tấn công được khai triển với ba yếu tố: bất ngờ, nhanh, hỏa lực tập trung. Chiều ngày 22/5/1972, một đại đội của Trung đoàn 1 BB đã tiến chiếm khu trung tâm của cao điểm 342. Các đại đội còn lại đã bung rộng để truy kích địch.Dù đã bị đánh bật ra khỏi hai căn cứ trọng điểm, nhưng áp lực của Cộng quân vẫn còn nặng. Để có thể chiến đấu lâu dài trên một địa thế bất lợi cho thế công, Trung đoàn 1 BB đã áp dụng ngay chiến thuật chốt của Cộng quân để chận địch. Mỗi chốt có khoảng 10 chiến binh, cứ ba chốt tạo thành một kiềng (cụm chốt), hỗ tương tác chiến, yểm trợ lẫn nhau. Về tiếp vận, các chốt được tiếp tế bằng đường bộ theo chu kỳ năm ngày một lần. Để đề phòng trường hợp bị bao vây, hoặc việc tiếp tế bị chậm trễ do thời tiết, các chốt đều có lương thực dự trữ đủ dùng trong một tuần. Chính với chiến thuật kiềng chốt, các tiểu đoàn của Trung đoàn 1 BB đã bảo vệ vững vàng vòng đai của các căn cứ trọng điểm tại phòng tuyến Tây Nam Huế.


Suốt nhiều năm tìm kiếm, gia đình của cố Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Ðiềm và cố Ðại Tá Võ Toàn đã tìm thấy hài cốt của họ với các tấm thẻ bài đầy đủ họ tên và số quân.
Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Ðiềm là tư lệnh Sư Ðoàn 1 Bộ Binh. Ðại Tá Võ Toàn là trung đoàn trưởng Trung Ðoàn 1 Sư Ðoàn 1 Bộ Binh. Cả hai sĩ quan này thiệt mạng trong một chuyến bay vào đêm 28 tháng 3, 1975 từ Ðà Nẵng dự trù về Qui Nhơn chuẩn bị phòng tuyến mới để cầm cự khi Ðà Nẵng thất thủ và Quảng Nam không còn an toàn.
Theo nguồn tin của gia đình Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Ðiềm và Ðại Tá Võ Toàn, tìm ra địa điểm hài cốt của họ mới cách đây khoảng 3 tuần lễ tại một địa điểm sát bờ biển thuộc làng Lá Ngái, thôn An Hải, xã Bình Châu, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
Ðược sự giúp đỡ của người dân địa phương đã chôn cất những tử thi này, gia đình đã dễ dàng kiếm ra địa điểm. Trước đó, gia đình Chuẩn Tướng Ðiềm đã tổ chức rất nhiều lần tìm kiếm nhưng không thành công.
Khi khai quật lên, ngoài hài cốt của Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Ðiềm (còn thẻ bài và một lá bùa trong túi áo- được gia đình xác nhận), Ðại Tá Võ Toàn (còn thẻ bài và một nhẫn cưới), còn có hài cốt một thiếu úy (có cấp bậc trên cổ áo), một phi công (mặc đồ bay), một phụ nữ và một em bé.
Ðiều này trùng hợp với ký ức của cựu Trung Tá Lê Ngọc Bình, người lái chiếc máy bay bị rớt, cho biết trong số người trên máy bay ngoài hai sĩ quan Sư Ðoàn 1 còn có nhiều người quá gian tránh pháo kích.
Trong cuộc nói chuyện với báo Người Việt trưa ngày 7 tháng 10, ông Lê Ngọc Bình nói rằng máy bay do ông lái bay trong sương mù dày đặc, chở nặng (khoảng 16 người gồm cả quân và một vài người là thân nhân không quân chạy nạn) không bay cao được và bay dọc theo bờ biển.
Tới một khu vực thuộc tỉnh Quảng Ngãi thì bị bắn và máy bay rơi xuống biển.
Ông Bình, nguyên phi đoàn trưởng phi đoàn trực thăng 275 của Sư Ðoàn 1 Không Quân VNCH, kể rằng buổi tối 28 tháng 3 năm 1975, phi trường Ðà Nẵng bị pháo kích dữ dội. Ông được lệnh dời phi đoàn sang một phi trường nhỏ ở Non Nước lâu nay không sử dụng, để tránh pháo kích và “đợi êm quay lại chứ không định đi đâu”. Ðược một ít lâu thì có mấy xe díp chạy tới, ngừng lại. Ông thấy có Chuẩn Tướng Ðiềm, Ðại Tá Toàn và một số sĩ quan cao cấp khác. Dịp này, Tướng Ðiềm liên lạc với tỉnh trưởng Bình Ðịnh thì được cho hay nơi đây vẫn còn an toàn nên ông muốn được vào đó để lập tuyến phòng thủ mới. Ông Bình trình bày rằng trời mưa và sương mù nặng nên bay rất khó khăn, nguy hiểm. Trong khi đang thảo luận thì “dân trong làng gần đó túa ra nói xe tăng Cộng Sản đang đi về hướng này”.
Vì vậy mọi người cùng lên máy bay và quyết định bay dọc biển về hướng Qui Nhơn ở phía Nam.
“Trên máy bay có một y tá, một phụ nữ với 4 đứa con nhỏ là những người quá giang tránh pháo kích ở Ðà Nẵng, tất cả ngồi đầy máy bay tới 16 người. Máy bay bay thấp vì nặng”. Ông Bình kể.
Máy bay bay ngang qua Chu Lai bị bắn, may không bể bình xăng, nên không mất cao độ. “Nhưng khi chưa tới Sa Huỳnh, Quảng Ngãi, thì bị bắn lên. Nghe tiếng súng nhỏ bắn rồi máy bay không còn điều khiển được và rớt xuống nước”.
Theo lời ông Bình kể “Ðụng nước, máy bay trực thăng lật ngửa. Tôi cố sức ra được, trồi lên mặt nước, mang giày nặng không bơi được nên lặn xuống cởi giày. Trồi lên lại thì thấy ông Ðiềm cũng nổi lên, còn mang áp giáp. Tôi la lớn kêu ông cởi áo giáp. Cũng thấy ông Toàn nổi lên.”
Lúc này, ông nói đã uống rất nhiều nước biển, rất mệt lại đêm tối không nhìn thấy gì, “sóng đánh rầm rầm, mạnh ai nấy đi”. Ông ráng bơi được vào bờ, rất mệt, bám được mô đá nhưng lại bị sóng đánh dạt ra ba lần mới bám được một chỗ, tay sứt móng máu chảy rất nhiều. Ông không thấy ai bơi vào như ông, lúc này ông đoán khoảng 11 tới 12 giờ đêm.
Ông Bình kể tiếp là ông đi dọc biển một hồi thì thấy một máy bay trực thăng trước mặt. Ông chạy tới, may nhờ một người trong nhóm người này là trung úy thuộc cấp cũng thuộc phi đoàn của ông nhìn ra ông nên đã không bị bắn.
Chiếc máy bay này đã đáp xuống vì sương mù dày đặc không bay nổi.
Khi họ đang bàn tính và chờ bớt sương mù thì bị một nhóm quân cộng sản tới tấn công. Nhóm của ông đã bắn trả, rút lên máy bay và bay đi kịp. Cố gắng lên được cao độ 2,000 feet, trời bớt sương mù và lúc này cũng đã khoảng 7 giờ sáng ngày hôm sau. Máy bay ra khỏi mây và bay về được tới phi trường Phù Cát.
“Tôi nghĩ là ông Chuẩn Tướng Ðiềm và những người kia đều đã chết đuối. Họ đã uống nhiều nước biển” nên mất sức, không thể chống chọi với sóng biển.
“Hai đêm qua tôi đã không ngủ được khi nghĩ đến chuyến bay hôm đó”. Ông Bình nói.
Quận Cam ngày 7 tháng 10 năm 2011
Huy Phương & Nam Phương
Người Việt






Quân-sử sư-đoàn 1 Bộ-Binh .
(Phạm Huấn; Trúc-Lâm Nguyễn-Việt Phúc-Lộc hiệu - Đính)
Sư đoàn 1 Bộ binh là một đơn vị thiện chiến của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, được thành lập năm 1959 và gác súng năm 1975. Đây là một đơn vị quân đội lớn, từng tham dự nhiều trận quan trọng trong Chiến tranh Việt Nam, lập được nhiều thành tích, và là sư đoàn bộ binh đầu tiên mà tất cả quân nhân được mang dây biểu chương ba màu của Bảo Quốc Huân Chương. Đặc biệt, Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 1 của sư đoàn là đơn vị duy nhất của Quân lực Việt Nam Cộng hòa nhận Presdential Unit Citation của Hoa Kỳ vì thành tích chiến đấu dũng cảm.
Năm 1959, Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) tái tổ chức các sư đoàn dã chiến 1, 2, 3, 4 và 6 sư đoàn khinh chiến 11, 12, 13, 14, 15, 16 thuộc quân đội Quốc gia Việt Nam thành 7 sư đoàn bộ binh, gồm Sư đoàn 1, Sư đoàn 2, Sư đoàn 5, Sư đoàn 7, Sư đoàn 21, Sư đoàn 22 và Sư đoàn 23 Bộ binh. Mỗi sư đoàn với quân số 10.500 quân nhân.
Sư đoàn 1 Bộ binh đặt bộ tư lệnh tại Huế, thuộc Quân đoàn I, Quân khu I, và gồm có các đơn vị trực thuộc: Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh, ba trung đoàn bộ binh tác chiến (Trung đoàn 1, 3, 51 và 54), Đại đội Hắc Báo Trinh sát/Viễn thám Sư đoàn 1 Bộ binh, Thiết đoàn 7/Lữ đoàn 1 Kỵ binh, ba tiểu đoàn pháo binh 105 mm, một tiểu đoàn pháo binh 155 mm và một số đơn vị yểm trợ: Đại đội 101 Quân cảnh, Tiểu đoàn Quân Y Sư đoàn 1 Bộ binh, Tiểu đoàn 1 Công binh, và các đơn vị truyền tin, vận tải, quân cụ, quân nhu.
Những ngày tháng cuối ...
Tháng 3 năm 1975, Sư đoàn 1 Bộ binh, Liên đoàn 15 Biệt động quân, các Tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến, cũng như Chi đội Thiết vận xa thuộc Lữ đoàn 1 Thiết Kỵ tăng phái chịu trách nhiệm bảo vệ hướng Tây và Nam tỉnh Thừa Thiên.
Tối ngày 23/03/1975, Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm tư lịnh Sư đoàn 1 Bộ Binh họp BTL và và ban hành lịnh rút quân của Quân Đoàn I. Và lịnh rút quân được ban hành rất ngắn gọn. Theo kế hoạch, Sư đoàn 1 Bộ binh cùng các đơn vị phụ thuộc sẽ tập hợp tại cửa Tư Hiền, vượt đầm Cầu Hai, qua đèo Hải Vân rồi theo Quốc lộ 1 về Đà Nẵng. Binh sĩ được lịnh bỏ lại những đồ vật kềnh càng, mang theo 7 ngày lương thực và đạn dược đầy đủ để chiến đấu dọc đường.
Sau khi Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm, Tư lệnh SĐ 1 BB, tại Bộ Tư lệnh Sư đoàn trong căn cứ Giạ Lê phổ biến lệnh rút quân khỏi Huế, thì một giờ sau đó, cảnh tượng hỗn loạn đã diễn ra tại Bộ Chỉ huy của các đơn vị trực thuộc.
Sáng ngày 24/03/1975, Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm bay chỉ huy cuộc rút quân bằng trực thăng nhưng bị trúng đạn VC, một trực thăng khác của Sư đoàn Thủy quân Lục Chiến đã đáp xuống tiếp cứu ông và đưa về Đà Nẳng. Ông được ghi nhận mất tích kể từ ngày 29/03/1975.
Vị tư lịnh bị mất tích, hệ thống liên lạc giữa Quân đoàn và Sư đoàn hoàn toàn mất liên lạc và đưa tới sự thất bại cuộc rút quân của Sư đoàn 1 Bộ Binh.
Ngày 24 tháng 3 năm 1975, Sư đoàn 324B và Sư đoàn 325 BV, cùng Trung đoàn Trị Thiên biệt lập, đồng loạt tấn công dọc theo tuyến phòng thủ sông Bồ kéo dài đến Phú Lộc. Tại các trận tuyến Mõ Tàu, núi Bông và các cao điểm nơi có mặt Trung đoàn 1, 51, 54 thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh, giao tranh xảy ra quyết liệt và gây thiệt hại nặng cho các đơn vị tấn công.
Con đường duy nhất dẫn về Phú Lộc, An Nông, Phú Bài... đã bị VC phục kích và nã súng xối xả vào đoàn quân triệt thoái và gây thiệt hại nặng nề cho quân đội VNCH. Và hai Trung đoàn của Sư đoàn 1 Bộ Binh đã tan hàng vào các ngày 24 và 25 tháng 3 năm 1975.
Các tiểu đoàn khác của các Trung đoàn 1, 3, 51 và 54 BB và các đơn vị thống thuộc như Thiết giáp, Pháo Binh, cũng lâm vào tình cảnh tương tự. Khi về đến cửa Tư Hiền, Duyên đoàn 13 Hải quân chịu trách nhiệm đưa quân qua sông bị khó khăn và không làm tròn trọng trách đó. Binh sĩ Sư đoàn 1 Bộ Binh một số được tàu Hải Quân chở, một số khác mở đường máu ven theo Quốc lộ 1 hoặc ven theo biển, phần lớn đã hy sinh trên đường rút quân. Và chỉ có khoảng 4.000 quân nhân về được đến Đà Nẵng.
Các vị tư lệnh sư đoàn:
Đại tá Lê Văn Nghiêm 15/01/1955 - 15/12/1955
Đại tá Nguyễn Khánh 15/12/1955 - 14/08/1957
Đại tá Tôn Thất Đính 14/08/1957 - 09/08/1958
Đại tá Nguyễn Văn Chuân 09/08/1958 - 30/07/1959
Đại tá Tôn Thất Xứng 30/07/1959 - 02/12/1960
Đại tá Nguyễn Đức Thắng 02/12/1960 - 01/10/1961
Đại tá Nguyễn Văn Thiệu 01/10/1961 - 08.12/1962
Đại tá Đỗ Cao Trí 08/12/1962 - 22/11/1963
Đại tá Nguyễn Văn Hiếu 22/11/1963 - 12/12/1963
Đại tá Trần Thanh Phong 12/12/1963 - 19/02/1964
Đại tá Nguyễn Chánh Thi 19/02/1964 - 21/10/1964
Đại tá Nguyễn Văn Chuân 21/10/1964 - 14/03/1966
Chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận 14/03/1966 - 18/16/1966
Thiếu tướng Ngô Quang Trưởng 18/16/1966 - 23/08/1970
Thiếu tướng Phạm Văn Phú 23/08/1970 - 12/11/1972
Chuẩn tướng Lê Văn Thân 12/11/1972 - 31/10/1973
Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm 31/10/1973 - 29/03/1975
Các trận đánh tiêu biểu
Chiến dịch Pegasus (1968)
Trận Mậu Thân (1968)
Trận Lam Sơn 719 (1971)
Trận Mùa Hè Đỏ Lửa - phòng tuyến Tây Nam Huế (1972) .
( ST )


Sống chết bên nhau

Trở về nhà sau 36 năm

Huy Phương

“Hài cốt người phi công tìm thấy là Trung Úy Nguyễn Văn Tạng và người phụ nữ cùng em bé là vợ con của y tá phi hành Nguyễn Chược (thuộc Phi Ðoàn 257 Trực Thăng)?”
Theo lời kể của ông Nguyễn Minh Ðệ, 55 tuổi, trưởng nam của Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Ðiềm, những năm trước đây, với nguồn tin máy bay trực thăng do Trung Tá Lê Ngọc Bình lái bị bắn rớt tại Sa Huỳnh vào ngày 28 tháng 3, 1975 sau khi Ðà Nẵng bị thất thủ, gia đình Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Ðiềm đã đến vùng này để tìm kiếm nhưng không có kết quả. Thật ra địa điểm máy bay rơi là Sa Kỳ thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Năm ngoái, có một thân nhân ở Ðà Lạt cho biết ở Sa Kỳ năm 1975 người ta có chôn một ông tướng VNCH tên Ðiềm và chỗ này dân chúng tin tưởng rất linh thiêng, hay đến cầu xin và nhang khói, tuy vậy gia đình đã mất lòng tin vì đã cất công tìm kiếm nhiều lần.
Nhân có người em của Chuẩn Tướng Ðiềm ở Mỹ mới về thăm nhà và ông này đã thúc giục gia đình nên đi Sa Kỳ một lần để rõ thực hư. Khi đến nơi hỏi thì dân làng ai cũng biết ngôi mộ này, nằm trong một xóm nhỏ có tên là Lá Ngái.
Theo lời kể của dân làng thì đầu tháng 4 năm đó có rất nhiều xác người tấp vào bờ và dân làng đã chôn họ rải rác ven bờ biển, qua các trận bão lụt, bây giờ đã không còn dấu tích gì. Rất may mắn, sáu thi thể trong đó có Chuẩn Tướng Ðiềm, Ðại Tá Võ Toàn nằm gần một hố bom, cao hơn mặt biển được dân làng mai táng vào đó, nên không hề bị ảnh hưởng bởi sóng gió. Vì sự linh thiêng của người chết mà dân trong vùng tin tưởng, nên khi gia đình đến nơi, người trong thôn đã chỉ nơi chính xác của ngôi mộ. 
Khi công nhân khai quật nấm mộ đã bắt gặp hai đôi giầy trận đã mục nát. Một hài cốt nhỏ nhắn được gia đình nghi là của Chuẩn Tướng Ðiềm, còn thẻ bài mang rõ họ tên, và trong túi áo còn có một mảnh bùa. Cạnh bên là hài cốt của Ðại Tá Võ Toàn, có thẻ bài và một chiếc nhẫn vàng trên lóng xương tay. Theo xác nhận của bà quả phụ Võ Toàn, hiện đang sống tại Việt Nam nói chuyện với chúng tôi qua điện thoại, đây là chiếc nhẫn đính hôn từ năm 1964, sau này tay của ông mập ra nên không thể nào cởi nhẫn ra được, do đó mà chiếc nhẫn nhẫn mới còn.
Trong ngôi mộ này người ta còn tìm thấy hài cốt của một em bé, một phụ nữ, một thiếu úy (xác nhận nhờ cấp bậc trên cổ áo), một phi công (nhận ra nhờ bộ đồ bay). Hai quân nhân này không có giầy, và hài cốt của người phi công lớn hơn bình thường. Qua cuộc điện đàm với chúng tôi sau khi có tin nấm mộ được khai quật, cựu trung tá phi công Lê Ngọc Bình, hiện cư ngụ tại La Fayette, Louisana, cho rằng đây có thể là hài cốt của cố Trung Úy Nguyễn Văn Tạng, co-pilot của ông trong chuyến bay định mệnh này, và người đàn bà và đứa trẻ là gia đình của “y tá phi hành” Nguyễn Chược trong Phi Ðoàn 257 Trực Thăng có nhiệm vụ “tản thương-tìm cứu” mà ông Lê Ngọc Bình là phi đoàn trưởng. Ông Nguyễn Chược đã gửi theo chuyến bay này người vợ và 4 đứa con nhỏ. Về những người khác đi trên chuyến bay ông không biết rõ. Sống chết bên nhau
Trong thời gian có cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh sang Hạ Lào, lúc Ðại Tá Ðiềm (Khóa 4 Thủ Ðức), chỉ huy Trung Ðoàn I BB thì Trung Tá Võ Toàn (khóa 17 VBQG Ðà Lạt) là tiểu đoàn trưởng TÐ 3/1. Năm 1973 lúc Chuẩn Tướng Ðiềm được giao trọng trách tư lệnh SÐ 1 thì Ðại Tá Võ Toàn là trung đoàn trưởng Trung Ðoàn IBB. Tháng 3 năm 1975, Sư Ðoàn 1 Bộ Binh cùng Liên Ðoàn 15 Biệt Ðộng Quân, chịu trách nhiệm bảo vệ hướng Tây và Nam tỉnh Thừa Thiên. Trong lúc hành quân, sư đoàn được lệnh rút về cửa Tư Hiền để thực hiện lệnh tái phối trí Quân Ðoàn I. Theo kế hoạch rút quân, Sư Ðoàn 1 Bộ Binh cùng các đơn vị phụ thuộc sẽ tập hợp tại cửa Tư Hiền, vượt đầm Cầu Hai, qua đèo Hải Vân rồi theo quốc lộ 1 về Ðà Nẵng. Trước sự tấn công của cộng sản và Duyên Ðoàn 13 Hải Quân chịu trách nhiệm đưa quân qua sông bị khó khăn, không làm tròn trọng trách, nên cuối cùng Sư Ðoàn 1 Bộ Binh tan rã tại đây, và chỉ khoảng vài nghìn quân nhân về được đến Ðà Nẵng.
Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Ðiềm được Trung Tướng Ngô Quang Trưởng chỉ định làm Quân Trấn Trưởng Ðà Nẵng để tái lập an ninh, và Ðại Tá Võ Toàn tuy là phụ tá Quân Trấn Trưởng nhưng gần như ông đôn đốc mọi công chuyện. Ðịnh mệnh đã sắp xếp để cuối cùng hai chiến hữu của SÐ1BB, đã từng chiến đấu bên nhau cùng lên một máy bay trực thăng HU1H do Trung Tá Lê Ngọc Bình lái từ căn cứ Non Nước bay về hướng Nam. Ngày 18 tháng 4 khi CS tiến vào Ðà Nẵng. Trong cuộc phỏng vấn truyền hình của chúng tôi (và phóng viên quay phim Ðăng Minh SBTN) tại nhà riêng của Cựu Trung Tá Lê Ngọc Bình tại thành phố La Fayette vào tháng 10, 2007, ông Bình xác nhận là không biết có Ðại Tá Toàn trên máy bay hay không, vì trong lúc hỗn loạn và quá đông người.
Cuối cùng khi khai quật nấm mồ, người thấy Chuẩn Tướng Ðiềm và Ðại Tá Toàn nằm sát bên nhau.
Sau hơn 36 năm Ðại Tá Võ Toàn đã về với gia đình tại Long Thành (Biên Hòa) và Chuẩn Tướng Ðiềm có mộ phần tại Bà Rịa (Phước Tuy). Hai người đều sinh trưởng ở Huế, chiến đấu nhiều năm cho mảnh đất quê hương, nhưng sau tháng 4, 1975, gia đình của hai tử sĩ này đều bị vùi dập, kỳ thị và xua đuổi phải đi dần về phương Nam tìm đất sống và đã “nhận nơi này làm quê hương.”


Gia Đình Tướng Điềm năm 2017

Saturday, May 27, 2017

Lương Ngọc Lành vợ cố Trung Uý Phi Công Nguyễn Văn Tạng thuộc Phi Đoàn 257 SĐ 1KQ

Thu Luong


Sống chết bên nhau Trở về nhà sau 36 năm / Huy Phương

Hài cốt người phi công tìm thấy là Trung Úy Nguyễn Văn Tạng và người phụ nữ cùng em bé là vợ con của y tá phi hành Nguyễn Chược (thuộc Phi Ðoàn 257 Trực Thăng)?”
Theo lời kể của ông Nguyễn Minh Ðệ, 55 tuổi, trưởng nam của Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Ðiềm, những năm trước đây, với nguồn tin máy bay trực thăng do Trung Tá Lê Ngọc Bình lái bị bắn rớt tại Sa Huỳnh vào ngày 28 tháng 3, 1975 sau khi Ðà Nẵng bị thất thủ, gia đình Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Ðiềm đã đến vùng này để tìm kiếm nhưng không có kết quả. Thật ra địa điểm máy bay rơi là Sa Kỳ thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Năm ngoái, có một thân nhân ở Ðà Lạt cho biết ở Sa Kỳ năm 1975 người ta có chôn một ông tướng VNCH tên Ðiềm và chỗ này dân chúng tin tưởng rất linh thiêng, hay đến cầu xin và nhang khói, tuy vậy gia đình đã mất lòng tin vì đã cất công tìm kiếm nhiều lần.
Nhân có người em của Chuẩn Tướng Ðiềm ở Mỹ mới về thăm nhà và ông này đã thúc giục gia đình nên đi Sa Kỳ một lần để rõ thực hư. Khi đến nơi hỏi thì dân làng ai cũng biết ngôi mộ này, nằm trong một xóm nhỏ có tên là Lá Ngái.
Theo lời kể của dân làng thì đầu tháng 4 năm đó có rất nhiều xác người tấp vào bờ và dân làng đã chôn họ rải rác ven bờ biển, qua các trận bão lụt, bây giờ đã không còn dấu tích gì. Rất may mắn, sáu thi thể trong đó có Chuẩn Tướng Ðiềm, Ðại Tá Võ Toàn nằm gần một hố bom, cao hơn mặt biển được dân làng mai táng vào đó, nên không hề bị ảnh hưởng bởi sóng gió. Vì sự linh thiêng của người chết mà dân trong vùng tin tưởng, nên khi gia đình đến nơi, người trong thôn đã chỉ nơi chính xác của ngôi mộ. 
Khi công nhân khai quật nấm mộ đã bắt gặp hai đôi giầy trận đã mục nát. Một hài cốt nhỏ nhắn được gia đình nghi là của Chuẩn Tướng Ðiềm, còn thẻ bài mang rõ họ tên, và trong túi áo còn có một mảnh bùa. Cạnh bên là hài cốt của Ðại Tá Võ Toàn, có thẻ bài và một chiếc nhẫn vàng trên lóng xương tay. Theo xác nhận của bà quả phụ Võ Toàn, hiện đang sống tại Việt Nam nói chuyện với chúng tôi qua điện thoại, đây là chiếc nhẫn đính hôn từ năm 1964, sau này tay của ông mập ra nên không thể nào cởi nhẫn ra được, do đó mà chiếc nhẫn nhẫn mới còn.
Trong ngôi mộ này người ta còn tìm thấy hài cốt của một em bé, một phụ nữ, một thiếu úy (xác nhận nhờ cấp bậc trên cổ áo), một phi công (nhận ra nhờ bộ đồ bay). Hai quân nhân này không có giầy, và hài cốt của người phi công lớn hơn bình thường. Qua cuộc điện đàm với chúng tôi sau khi có tin nấm mộ được khai quật, cựu trung tá phi công Lê Ngọc Bình, hiện cư ngụ tại La Fayette, Louisana, cho rằng đây có thể là hài cốt của cố Trung Úy Nguyễn Văn Tạng, co-pilot của ông trong chuyến bay định mệnh này, và người đàn bà và đứa trẻ là gia đình của “y tá phi hành” Nguyễn Chược trong Phi Ðoàn 257 Trực Thăng có nhiệm vụ “tản thương-tìm cứu” mà ông Lê Ngọc Bình là phi đoàn trưởng. Ông Nguyễn Chược đã gửi theo chuyến bay này người vợ và 4 đứa con nhỏ. Về những người khác đi trên chuyến bay ông không biết rõ. Sống chết bên nhau
Trong thời gian có cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh sang Hạ Lào, lúc Ðại Tá Ðiềm (Khóa 4 Thủ Ðức), chỉ huy Trung Ðoàn I BB thì Trung Tá Võ Toàn (khóa 17 VBQG Ðà Lạt) là tiểu đoàn trưởng TÐ 3/1. Năm 1973 lúc Chuẩn Tướng Ðiềm được giao trọng trách tư lệnh SÐ 1 thì Ðại Tá Võ Toàn là trung đoàn trưởng Trung Ðoàn IBB. Tháng 3 năm 1975, Sư Ðoàn 1 Bộ Binh cùng Liên Ðoàn 15 Biệt Ðộng Quân, chịu trách nhiệm bảo vệ hướng Tây và Nam tỉnh Thừa Thiên. Trong lúc hành quân, sư đoàn được lệnh rút về cửa Tư Hiền để thực hiện lệnh tái phối trí Quân Ðoàn I. Theo kế hoạch rút quân, Sư Ðoàn 1 Bộ Binh cùng các đơn vị phụ thuộc sẽ tập hợp tại cửa Tư Hiền, vượt đầm Cầu Hai, qua đèo Hải Vân rồi theo quốc lộ 1 về Ðà Nẵng. Trước sự tấn công của cộng sản và Duyên Ðoàn 13 Hải Quân chịu trách nhiệm đưa quân qua sông bị khó khăn, không làm tròn trọng trách, nên cuối cùng Sư Ðoàn 1 Bộ Binh tan rã tại đây, và chỉ khoảng vài nghìn quân nhân về được đến Ðà Nẵng.
Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Ðiềm được Trung Tướng Ngô Quang Trưởng chỉ định làm Quân Trấn Trưởng Ðà Nẵng để tái lập an ninh, và Ðại Tá Võ Toàn tuy là phụ tá Quân Trấn Trưởng nhưng gần như ông đôn đốc mọi công chuyện. Ðịnh mệnh đã sắp xếp để cuối cùng hai chiến hữu của SÐ1BB, đã từng chiến đấu bên nhau cùng lên một máy bay trực thăng HU1H do Trung Tá Lê Ngọc Bình lái từ căn cứ Non Nước bay về hướng Nam. Ngày 18 tháng 4 khi CS tiến vào Ðà Nẵng. Trong cuộc phỏng vấn truyền hình của chúng tôi (và phóng viên quay phim Ðăng Minh SBTN) tại nhà riêng của Cựu Trung Tá Lê Ngọc Bình tại thành phố La Fayette vào tháng 10, 2007, ông Bình xác nhận là không biết có Ðại Tá Toàn trên máy bay hay không, vì trong lúc hỗn loạn và quá đông người.
Cuối cùng khi khai quật nấm mồ, người thấy Chuẩn Tướng Ðiềm và Ðại Tá Toàn nằm sát bên nhau.
Sau hơn 36 năm Ðại Tá Võ Toàn đã về với gia đình tại Long Thành (Biên Hòa) và Chuẩn Tướng Ðiềm có mộ phần tại Bà Rịa (Phước Tuy). Hai người đều sinh trưởng ở Huế, chiến đấu nhiều năm cho mảnh đất quê hương, nhưng sau tháng 4, 1975, gia đình của hai tử sĩ này đều bị vùi dập, kỳ thị và xua đuổi phải đi dần về phương Nam tìm đất sống và đã “nhận nơi này làm quê hương.”
(Hình do gia đình cung cấp)


Gia Đình Tướng Điềm năm 2017

Wednesday, May 24, 2017

THE IMMORTAL 219 KINGBEE.


PHẠM  MINH MẪN
TÔI NHỚ ĐẾN TÊN CÁC ANH VÀ CÁC BẠN 219. (NHỮNG NGƯỜI CÒN SỐNG VÀ NHỮNG ANH EM ĐÃ ANH DŨNG HY SINH.) CÁC ANH VÀ CÁC BẠN LUÔN SỐNG MÃI  TRONG TIM TÔI, NHỮNG VUI , BUỒN , NHỮNG ĐAU THƯƠNG VÀ MẤT MÁT, MÀ TÔI LUÔN  NHỚ, KHẮC GHI TRONG LÒNG, KHÔNG BAO GIỜ QUÊN KINGBEE 219 BẤT TỬ MÃI TRONG TÔI.

NHÂN VẬT
Tôi  Phạm Minh Mẫn về Phi Đoàn vào khoảng cuối tháng 5 năm 1968  và tình hình nhân viên Phi Đoàn lúc bấy giờ, Tôi  được nghe nhắc đến  Ong Hồ Bảo Định  và Ong cũng là Chỉ Huy Trưởng Phi Đoàn 219 đầu   tiên.   Kế đến các Anh Nguyễn Phi Hùng (Râu kem) Lưu Văn Trâm Tô Phùng Đạt Thoan Thái Hiệp Lê Hồng Lĩnh Châu -  Nguyễn Văn Mai - và chị văn thư tên Hải.
Theo lời kể lại của Anh Đỗ Văn Hiếu thì Lịch sử Trước khi thành lập PĐ 219 là BIỆT ĐỘI DELTA và Biệt Đội  DELTA thì khởi đầu từ năm 1964 do nhu cầu chiến trường và thoạt đầu công việc này do các PHĐ 211 chịu trách nhiệm . Khoảng mấy tháng sau thì BTL.KQ quyết định chọn lựa các PHĐ tình nguyện thuộc hai PĐ 211 & 213  Trưởng biệt đội đầu tiên là anh Hồ Bảo Định . Khi Tôi ( Đỗ Văn Hiếu ) , anh Nguyễn Phi Hùng và Mevo  Nguyễn Quang Hiểu đến với BĐ năm 1965  thì Trưởng BĐ là anh Trương Văn Vinh , vài tháng sau thì anh Vinh chuyển ra ĐNG (PĐ 213) Anh Huỳnh Văn Vui lên làm Trưởng BĐ . Biệt Đội gồm có :
         Huỳnh Văn Vui , Nguyễn Phi Hùng , Trần Hữu Khôi , Đinh Hữu Hiệp , Châu Lương Cang , Tống Phước Hảo, Nguyễn Văn Mành , Phan Văn Khiết , Trương Phong Trắng và  Đỗ Văn Hiếu .
     Lúc này Anh Hồ Bảo Định & trần Văn Luân cùng một số Anh Em khác  hoạt đông ở ĐNG , tất cả đều trực thuộc BIỆT ĐOÀN 83  do Thiếu Tá Nguyễn Cao kỳ làm Chi Huy Trưởng ( nói như thế nhưng thực tế ban đầu là Ong Lưu Kim Cương là người điều hành và khi Ong ta sang chi Huy Không Đoàn Vận Tải ( Không Đoàn 33 chiến thuật ) < Sư Đoàn 5 KQ sau này >  thì Anh Nguyễn Ngọc Khoa ( Khoa Đen )  Lên  thay thế. Sau trận PLEIME đầu năm 1966 thì BĐ giao phần trách nhiệm lại cho các Đội TT của Mỹ và trở ra ĐNG  sát nhập với BĐ ở đây và thành lập Phi Đoàn 219  Đ/U Hồ Bảo Định làm CHT .
Phi Đoàn 219 làm việc cho Green Berets  của Lực Lượng ĐặcBiệt Hoa Kỳ theo chương trình OP 35 của MAC-SOG do hai Ong Lieuternal Colonel WARREN và Colonel BLACK BURN  làm chỉ huy.

Phi Đoàn 219 tháng 05 năm 1968 gồm có :
C.HTRƯỞNG thứ nhì   Th/T Đặng Văn Phước.
   C.H PHÓ                  :  Đ/U    Trần Văn Luân.
   TRƯỞNG P.HQ : Đ/U Nguyễn Văn Nghĩa
   SĨ QUAN  HL.PĐ: Đ/U Nguyễn Hưu Lộc.
                                   Đ/U Tống Phước Hảo.
                                   Đ/U Đinh Công Toản.

   Cố Vấn QS.H K: Major Crossman ( 1968-1969).
                             Major  Hennessy( 1969-1970).
                             Major  Helm       ( 1970-1971).
                             Major  Dear        ( 1971-1972).
  Sĩ Quan tài chánh MAC-SOG : Major Black Bird.

   Hạ Sĩ Quan liên lạc MAC-SOG  :
                         Sergeant    Amstrong.
                         Sergeant      Jonshon.
   Văn thư Phi Đoàn : Tr/s  Nguyễn Ngọc Giao.
                                 :  B2   Trung.
                                 : Tr/s Đỗ Viết Châu ( 1970 ).
   Vũ khí Phi Đoàn   :  Tr/s Mùi.  & ….?

     Sĩ Quan Trưởng Phi Cơ Flight Leader : Các Anh Đỗ Văn Hiếu Châu Lương Cang Đinh Quốc Thinh Bùi Văn Be Phan Văn Thanh Huỳnh Van Phố Nguyễn Qúy  An -Nguyễn Văn Tưởng Trần Văn Phước .
     Trưởng Phi Cơ và Hoa Tiêu Chánh: Nguyễn Tấn Trọng ( Ong gia Noel) Ngô Viết Vượng Đặng  Văn Cung Tôn Thất Sinh Nguyễn Hiền Nhơn Phạm  Vinh Nguyễn Thanh Liêm Đinh Thế Khúc -  Nguyễn văn Minh Nguyễn Tấn Hiền Trần Quang Đệ Nguyễn Minh Khiết ( lúc này không còn bay nữa ) Vũ Đức Thắng Nguyễn Du -  Trần Ngọc Thạnh Phạm Ngọc Xuân.
     Hoa Tiêu Phó : Huỳnh Xuân Thu Phạm Văn Qúy Trần Văn Long Trần Quang  Trọng Phạm Công Khanh Bạch Mạnh Hùng Hướng Văn Năm Phan Văn Thận Vũ Tùng Phạm Ngọc Sâm Huỳnh Văn Du Đinh Văn Huê Chung Tử Bửu .
     Mevo Phi Đoàn: Ch/u Phan Văn Tưởng Ch/u Nguyễn Quang Hiểu Ch/u Hồ Văn nguyên Phan Ngọc Hưởng Nguyễn Văn Thanh Phạm Văn Truật Hà Khắc Vững Phạm Ngọc Khuê Lê Văn Xê (lúc này không còn bay nữa) Nguyễn Thanh Cần Nguyễn Kim Sơn Nguyễn Văn Công Nguyễn Văn Em Lê Phước  Quý Đổng Minh Sanh Nguyễn Văn nghĩa ( Già)  Nguyễn Văn Thân Nguyễn Văn Lợi.
     Mevo bổ sung cuối tháng 5 năm 1968: Phạm Minh Mẫn Trần Tuấn Năng Trần Mạnh Nghiêm Nguyễn Văn Phương Phạm Văn Thịnh .
     Tháng 8 năm 1968  SQ về bổ sung:  Vương Văn Ngọ (213 qua ) Nguyễn Thanh Giang (215 ra) Phạm Văn trung ( Cần Thơ ra ) & Tr/u Nguyễn Kim Huờn ( CT ra ) có 1 Mevo ở PD 215 ra là Tr/sI Toản  và một tốp Pilot  mới về  cuối năm 1968 là : Nguyễn Hải Hoàn Dương Văn Khải Lê Long Sơn ( Sơn  đen).
     Đầu năm 1969 tốp thứ hai  mới về là : Nguyễn Văn Phước -  Hứa Văn Trung Thái Anh Kiệt Phạm Sĩ Tài Nguyễn Hải Lộc Nguyễn Ngọc  An Nguyễn Quang Anh Thái Hóa Đạt Nguyễn Thế Cù Nguyễn Văn Vang. và cùng thời gian  đó  nhóm Sĩ Quan khóa 21 trường Võ bị Đà Lạt  : Nguyễn Thái Dũng Nguyễn Văn Yên Hà Tôn   Phan Xuân Lễ   Nguyễn  Côn Lê Hữu Khiêm Đỗ Văn Chấn Trần Đức Viết   Lê  Văn Sang.
     Tháng 12 năm 1968 về thêm:  Võ Thành Long (Long con)- Dương Ngọc Như.  Và Mevo về thêm gồm: Phạm Xuân Hùng Hồ Đắc Bình Nguyễn Văn Nhất Nguyễn Văn Bé Nguyễn Minh Chấp , Trần Văn Đức . Mevo Th/u Nguyễn Văn Mai (215 trở về lại PĐ 219 ).
     Tháng 10 năm 1969 về thêm :  Lâm Hồng Son Lê Thế Hùng (Đế) Trần Văn Sua   Nguyễn Minh Đường - MEVO về thêm tháng 4 năm  1969 Trịnh Xuân Kha Lê Trung Nguyên Trần Văn Liên Lê Văn Tấn Trần Khánh Và Cần Thơ ra có Th/s Võ Văn Hồng .
     Tháng 8 năm 1970 Pilot mới về : Đỗ Kim Long Ngô Văn Thành Lê Tiến Lang ( Tony Bóng ) Bùi Tá Khánh Phan Thành Lập - Nguyễn Xuân Bách Thọ (râu)   Huỳnh Tấn Phước ( Mực )  .
     Tháng 12 năm 1970 : Về Quách Ngọc Thao Võ Văn On Lâm Quang Long (Cồ) Ngô Tấn Long ( Long đầu bạc) Lại Công An .
     Tháng 1 và 2 năm 1971 Pilot lại bổ sung : Trần Hưng Mạnh Nguyễn Văn Biên Đào Huy Tùng Hoàng Minh Tuấn Nguyễn Văn  Kim ( méo)-  Lữ Liệt Đen Nguyễn Văn Hồng - Đặng Quỳnh .
     Tháng 4 năm 1971 Pilot về thêm : Dương Văn Hoanh Lê Phước Trần Ngọc.                                  Cuối năm 1971 về :  Lý Lạc Long Tiên Nguyễn Thế Nghiệp -Phan  Ngọc Anh Đặng Chí Thông Nguyễn Văn Tiến  - Võ Tuấn Kiệt Lê Hồng Anh Lương Ngọc  Anh Lưu Ngọc Hoàng Nguyễn Tiến Thành Phan Công Bơ Nguyễn Văn Tiều Nguyễn Ngọc (A) Nguyễn Ngọc (B) Nguyễn Văn Nhan Trần Văn Hoa Liêu Thụy Vinh  -.Đặng Quân.
     Qua năm 1972 Pilot ở Cần Thơ ra tăng cường : Trần Xuân Thọ Nguyễn Văn Hiệp Võ Văn Còn Trần Mộc Đảnh Nguyễn Văn Phúc(nhẩy dù) Sau tuần tự từ 1972 đến 1974  Pilot mới về thêm : Nguyễn Minh Đường Lê Trung Phước Nguyễn  Hùng Lực   Lê Hoài Phương -  Đặng Phước Vũ Kim Long ( Long nhí )  Lê Văn Lập Nguyễn Phúc Thiệu Nguyễn Tuất Lý Hạnh Lý Bổn Đường Võ Tuấn  Kiệt Lê Công Kiệt Nguyễn Văn Be - Nguyễn Thành Phước (Cao)   Trần Ngọc Sơn (Sơn mập) Tiêu Ngọc  Hoà - Lê Tuấn  Nghĩa ( ngựa ) Duyên Phước ( trán trợt )  Chiểu  - Hồ Văn Đức Nguyễn Văn Hoè Lý Chính 229 qua 1974 Dương Đức  Hạnh -  Lê Văn Nãi Nguyễn Đình Tuấn Phan Toàn-lê văn Lân - Nguyễn Văn Bá.
     Tháng 8 năm 1970 : Mevo về thêm : Hứa Tiến Hưng Nguyễn Văn Thiết Lại Công Chính Đạt (lùn) Sơn (chà và )-T?n . Va Bổ sung  bên 213 qua có Đặng Văn Nữu va Ch/u Nguyễn văn Sinh .
     Qua năm 1972 Mevo tiếp tuc về  : Võ Văn Tốt  -  Nguyễn  Định  Đào Huy Trường Hướng Vũ  Văn Thanh (Cân Thơ ra) Nguyễn  Văn Lụa (gun down Lụa) Mai Thanh Xuân Trần Văn Đức Nguyễn Thế Hùng Lê Văn Vẹn Nguyễn Phương Thảo Phan Văn Phước Phạm Ngọc Phục Nguyễn Văn Quan Võ Văn Hùng Lộc- Ngọc Nguyễn Văn Phụng Phan Hiếu nghĩa   Trần Cảnh Nguyễn văn Mưa .
     Gunner gồm có :  Đặng Văn Nhâm Phạm Văn Hồng Trần Văn Sang - Đặng Xuân Khôi Trần Hùng Hải (ruồi) Thân Ngọc Hải Nguyễn Văn Hải ( khỉ)- Trần Văn Hiệp Nguyễn Văn Diệp Nguyễn Thiện Trí Trần Quang Vinh Lại trần Việt Nguyễn  Quang Đạt Nguyễn Văn An  Phan Ngọc Sang Trần Thi Huệ Trần Phát Nguyễn Văn Nở Nguyễn Văn Tài Lê văn Cải Bảo Quý Đức (mập) Hoà Tiến (rỗ).Trần văn Nô Lê Văn Bổn .Hoà TX-Nguyễn Văn Sang Lưu Văn Thành.
     Qua năm 1973  Chi Huy Trưởng cuối cùng của Phi Đoàn 219 là  Th/T Phạm Đăng Luân. ( Lúc này Anh Phạm Đăng Luân đang làm Chỉ Huy Trưởng Phi  Đoàn 253 ở Đà Nẵng và đã Hoán chuyển với Anh Huỳnh Văn Phố  để về với PĐ 219  và  đây cũng là cái duyên của Anh với Phi Đoàn )
     CÁC ANH THẦN PHONG LONG  MÃ VÀ KINGBE  CÁC ANH ĐÃ TẠO NÊN MỘT TRANG SỬ HÀO HÙNG  CHO KINGBEE 219 NÓI RIÊNG VÀ CHO KHÔNG QUÂN  VIỆT NAM NÓI CHUNG . TRONG ĐÓ  ANH NGUYỄN PHI HÙNG ( Hùng râu kẽm ) MỘT THỜI NHỮNG AI LÀ KHÔNG QUÂN ĐỀU ĐÃ NGHE BIẾT TÊN ANH . ANH NGUYỄN VĂN PHƯỚC ( Phước đạo dừa ) NHỮNG  PHI CÔNG HOA KỲ ĐÃ CÙNG THAM CHIẾN SÁT CÁNH VỚI KINGBEE ĐỀU XEM ANH NHƯ MỘT THIÊN THẦN . ANH NGUYỄN QUÝ AN ( An cào  cào ) CHÍNH PHỦ HOA KỲ CA  NGỢI ANH VÀ KHEN TẶNG ANH LÀ MỘT ANH HÙNG .  VÀ TẤT CẢ NHỮNG ANH EM KINGBEE  CÒN SỐNG HAY ĐÃ ANH DŨNG HY SINH  CÁC ANH THẬT SỰ ĐÃ LÀM NÊN HUYỀN THOẠI  BẤT TỬ  VÀ ĐỂ ĐỜI CHO THẾ HỆ MAI SAU.
  (Theo đánh dấu đậm màu đỏ Từ năn 1968 đến 1975 có tất cả 53 người Hy Sinh trong cuộc chiến) và màu xanh đã ra đi vĩnh viễn do bệnh tật
     Và có hai Anh đã gạch dưới tên khi rời 219 đã bị tai nạn và chết như Anh Phạm Vinh  va chạm  máy bay L.19  tại Đà Lạt và đả tử thương vào mùa Noel . Anh Phạm Văn Trung về Cần Thơ sau làm Phi Đoàn Trưởng Chinook và bị  SA.7 bắn rơi tại Cái Bè.

THỜI GIAN &  SỰ KIỆN
 PHI ĐOÀN 219 Có Huy hiệu là LONG MÃ và khi làm việc với Không Quân & Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ thì họ gọi một cái tên that  ấn tượng là KINGBEE . Phi Đoàn Kingbee xử dụng Trực Thăng cổ điển CHOCTAW  CH.34 của hãng SIKORSKY chế tạo mãi đến cuối năm 1971 PĐ mới đổi lại TT  loại Slick  UH.1  của hãng BELL chế tạo.
     Tôi được nghe Anh Đỗ Văn Hiếu kể lại cho Anh Phạm Công Khanh như sau :
  Tôi định nếu có rảnh  sẽ viết lại  thật đầy đủ về ngành TT trong K.L.V.N.C.H từ  ngày thành lập và gởi sang cho Khanh để giúp ý cho mấy Anh viết về Lịch Sử KQ của chúng ta, dù sao thì Tôi cũng ở trong ngành TT khá lâu  nên tự thấy có bổn phận góp phần trách nhiệm với các Anh, về BIỆT ĐỘI DELTA thì  khởi đầu từ năm 1964  do nhu cầu chiến trường và thoạt đầu công việc này  do các PHĐ  cúa PĐ 211 đảm trách  khoảng mấy tháng sau thì BTL.KQ  quyết định chọn lựa các PHĐ tình nguyện thuộc hai PĐ 211 & 213 . Trưởng Biệt Đội (BĐ) đầu tiên  là Anh Hồ Bảo Định . Khi Tôi , Anh Nguyễn Phi Hùng và Nguyễn Quang Hiểu (nhóc Hiểu Mevo  của 219 chắc Khanh còn nhớ ? ) đến với BĐ năm 1965  thì Trưởng BĐ là Anh  Trương Văn Vinh  và một vài tháng sau thì Anh Vinh thuyên chuyển ra ĐNG  (PĐ 213) và Anh Huỳnh Văn Vui lên làm Trưởng BĐ . Biệt Đội gồm có Anh Vui , Hùng , Trần Hữu Khôi ( Bạn cùng khóa với tôi) , Đinh Hữu  Hiệp ,  Châu Lương Cang ,  Tống Phước Hảo , Nguyễn Văn Mành , Phan Văn Khiế`t , Trương Phong Trắng , và Tôi. Lúc này Anh Định và Trần Văn Luân  cùng một số Anh Em khác hoạt đông  ở ĐNG  và tất cả đều trực thuộc BIỆT ĐOÀN 83  do Ông  Thiếu tá Nguyễn Cao kỳ làm chỉ Huy Trưởng  ( Nói như thế nhưng  trên thực tế  thì ban đầu Ong Lưu Kim Cương là người điều hành và khi ông ta sang chi huy KĐ vận tải Không Đoàn 33 chiến thuật   ( Sư Đoàn 5 KQ sau này ) thì anh Nguyễn Ngọc Khoa ( Khoa Đen) thay thế.
     Nhiệm vụ của BĐ là  thả các toán DELTA  dọc theo biên giới Miên-Việt ( ở vùng 2 và vùng 3) hoặc vào trong các mật khu  của Địch quân như  ở Tam Quan Bồng Sơn . Mỗi lần đi hành quân như thế kéo dài  đến 3 hoặc 4 tuần lễ . Sau trận PLEIME  đầu năm 1966  thì BĐ giao phần trách nhiệm  lại cho các Đại đội TT của Mỹ và trở ra ĐNG sát nhập với BĐ ở đây và sau này Thành lập PĐ 219  như Khanh đã biết.

PĐ 219   có 4 đời Chỉ Huy Trưởng :
ĐỜI   ĐẦU (Nhà Hồ) HỒ BẢO ĐỊNH.
ĐỜI THỨ 2 (Nhà Đặng) ĐẶNG VĂN PHƯỚC.
ĐỜI THỨ3 (Nhà Nguyễn) NGUYỄNVĂN NGHĨA.
ĐỜI CUỐI (Nhà Phạm)   PHẠM ĐĂNG LUÂN.

TỌA LẠC : Phi Đoàn 219  đồn trú tại Không Đoàn 41  và PĐ đặt kế bên phía  trái là Phi Đoàn 213 và bên phải là xưởng hàn, sau  lưng  PĐ là Phòng Nhân viên và phòng Tài chánh, trước mặt

PĐ là Parking . Sau này khoảng giữa năm 1971 người ta xây trước mặt PĐ một Phòng Khánh Tiết để tiếp khách của Sư Đoàn I Không Quân. Vì bị án ngữ  trước mặt nên PĐ yêu cầu thay đổi vị trí  và được chấp thuận cho chuyển xuồng khu cứu Hỏa bên cạnh Air America cũ , nơi mà trước kia mấy chàng có máu cờ bạc , hay nhờ  các Anh Văn Thư  mua hộ vài cái đùi gà chiên , để thay bữa cơm trưa , trong lúc đỏ đen , không thể bỏ đi được. Đến ngày 25 tháng 4 năm 1972 PĐ lại dời về NhaTrang và  được đặt tại trại Bắc Bình Vương của  Lực Lượng Đặc Biệt  đã giải thể và giao lại,  nằm cuối Phi  Trường có đường ra khu chợ Phước Hải. Đến cuối năm 1973 sau tai nạn MẤT MÁY BAY . Để dễ kiểm soát máu truyền thống của Phi Đoàn 219, Sư Đoàn 2 Không Quân và Không Đoàn 62 Chiến Thuật buộc PĐ dời ra phía ngoài sát với Không Đoàn , đặt bên cạnh PĐ 215.

     CƯ XÁ PĐ 219 :   Đầu tiên PĐ 219  ở hai cư xá  , một là 33 Thanh Sơn ĐNG  cho mấy chàng độc thân , hai là số 4 Ba Đình ĐNG cho NVPH có gia đình, sau Thanh Sơn dời về  số 3 Tự Đức   ĐNG . Nơi này địch quân chú ý và đã có ý mưu đồ  sát hại NVPH , Chúng cho hai cô gái trà trộn  mở quán cơm , che lều bên cạnh tường CX , máy chàng rửng mỡ  trưa chiều hay ra ngồi đấu láo , nhất là chàng Jim Khuê và Long Đen , rất may vì chúng  gài mìn trong các lon bia và để trên cao , vô tình Anh Em dùng cơm xong đã bỏ về , còn lại Long Đen và Jim Khuê , mìn  nổ các Bố lại ngồi ở ngoài và vì vây chỉ bị sây sát sơ sơ , Trời đất ơi các Bố lăn lóc, ôm đầu la toáng tưởng chừng như sắp chết,  sau hai cô gái biến mất , truy tìm không ra và cũng từ đó  nơi cổng Số 3 Tự Đức  có thêm hai chú BK  gác , để bao vệ NVPH .Sau cung dời về 104 Thống Nhất  ĐNG . Khi PĐ dời về NTG , thi cư xá độc thân ở trong trại Bắc Bình Vương  và có gia đình ở  số  5C Trại Hàm Tử  thuộc đường  Lê Văn Duyệt  NTG  , trước mặt công Long Vân , nơi này trước kia là khu  Gia Binh của LLĐB.                 

     Tôi về Phi Đoàn vào cuối tháng 5 năm 1968,  vào những tháng sắp sửa vào mùa mưa , nên thời tiết rất oi bức , những ngày này đi ký giấy  Circuit Arrivee ở những nơi liên đới quản lý hành chánh, cấp phát quân trang ,vũ khí & tiền lương của một Quân Nhân, thật là vất vả vì từ bé đến giờ đây là lần đầu tiên đi xa và đến tận Đà Nẵng  nơi mà khí hậu chưa quen thuộc.
     Sau đó Tôi về trình diện đơn vị mới Phi Đoàn 219 cả 5 người được đưa vào diện kiến CHT  đời thứ nhì ( Nhà Đặng ) Ong thật  dễ dãi và gọi chief Mevo là Ch/u Phan Văn Tưởng & Ch/u Hồ Văn Nguyên vào nhận 5 người chúng Tôi  Ba Tưởng  biệt hiệu của Ong như vậy , vui vẻ hướng dẫn và cắt nghĩa cho chúng Tôi về Kỷ luật và phong cách làm việc của PĐ. Còn Anh Nguyên có cái đầu nhỏ bé và cả con người cũng nhỏ bé nhưng ra vẻ rất là hách xì xằng như là một CHT nhỏ vậy, và chẳng thấy Anh bay bao giờ cả.
     Qua hôm sau chúng Tôi được đi bay ngay vi lúc đó PĐ  đang thiếu Mevo mà nhu cầu Phi Vụ thì nhiều sau một tuần đi bay liên lạc và Huấn Luyện , chúngTôi  được cho tiếp súc hành quân.
     Lúc đầu Tôi thấy PĐ chỉ làm việc với CCN ở Non Nước gọi là trại FOB 4 & FOBI ở Phú Bài( do Th/t Hồ Châu Tuân chi Huy  thay cho Th/T Đoàn Kim Tuần ( Tuấn con) trại này nằm cạnh TT.HL Đống Đa và ra Quảng Trị  chi nhánh của Non Nước và Phú Bài  do Th/T Phát chỉ huy  - Sau này mới biệt phái Kon Tum FOB 2  Trại B15  con gọi là CĐ 2 XK kế đến biệt phái  Ban Mê Thuộc (CCC) gọi là trại FOB 3 (B50) do Th/t Nguyễn Hương Rĩnh chỉ huy. Rồi sau này biệt phái Quảng Lợi ở Bình Long  , và tiếp đến là làm việc cho NHA KỸ THUẬT do Đại Tá Đoàn Văn Nu chỉ huy bản Doanh bên cạnh trường đua Phú Thọ và trưc tiếp có Đại diện Không quân là Thiếu tá Dư Quốc Lương , rồi sau tăng Cường Trần Đức Viết của 219 và Phi Đoàn 219 còn làm việc cho Căn Cứ Huấn Luyện Biệt Kích Long Thành.

     Rồi Đà Nẵng từ những cơn nóng cháy da của mùa Hè , đột nhiên Bão  đến, những cơn mưa và gió giật rất mạnh , làm cây cối ngã đổ , mái nhà bị tróc nóc, tole bay loảng xoảng Tôi thật tình chưa  được trông thấy bao giờ , trong khi Tôi đang lái chiếc xe Vespa,  của Anh Phan Văn Thanh trước cổng Phi trường, thì gió làm cho xe không thể  nào chạy được , mặc dù xe không bi hư hỏng,  xuống dắt bộ cũng không xong , thế là đành phải bỏ xe lại bên lề đường , đi bộ về PĐ và  lúc đó đi bộ cũng  thật khó khăn. Sau  nhờ bạn cùng  khóa ra phụ đẩy xe về. Đó là hai kỷ niệm về thời tiết Tôi nhớ mãi, một là nắng nóng & hai là gió bão và lạnh buốt.
     Còn Kỷ niệm về  nghề nghiệp của buổi ban đầu thì thật là buồn cười, và cũng  là những bài học kinh nghiệm sau này , làm Tôi nghiên cứu và rất khá về Kỹ thuật…. Khoảng tháng 7 năm 1968  buổi chiều xem Phi Lệnh thấy ghi 6 giờ sáng  mai  đi Non Nước , bay liên lạc với Anh Đinh quốc Thinh . Sáng hôm sau Tôi dây sớm lúc 4giờ 30 , vì ở số 3 đường Tự Đức hay đánh bài đêm nên khó ngủ , tà tà kéo lại cái khăn Phu la màu hoa cà mà Phi Đoàn phát , chạy xe ra ngã  năm ăn sáng, Mới gọi ly bạc xỉu vì Tôi không biết uống cafe và một tô phở thi thằng Nghiêm đến la lên Trời đất ơi  mày bay 5 giờ mà bây giờ  còn  ngồi đây. Thế là  Tôi chạy bay ngay  Vô Phi Trường , bỏ cả An Tín mà chạy( Hộp quẹt Zippo và bao thuốc con Mèo) vì đồng hồ  vừa đúng 5 giờ. Phi lệnh đã được điều chỉnh giờ bay, khi vào tới nơi , chỉ kip chụp vội cái nón bay chạy ngay ra Phi Đạo , thì  Phi Cơ đã được quay máy và sửa soạn Engage cánh quạt , theo quáng tính ,  Tôi vội mở nắp nhớt ra  để kiểm tra , thì lập tức nhớt trong bình phun ra  đầy mặt và quần áo, rất may mà mới mở máy  chứ không bị phỏng nặng rồi , Anh Thinh vội leo xuống và đẩy Tôi lên máy bay, trong lúc trời còn tối , Anh Thinh nói Đi …lên nhanh lên kỹ thuật nó ra , trông tấy nó cười chết và Anh Thinh bay thẳng sang Non Nước , trong lúc mọi người vào ăn sáng  , Tôi ở ngoài Parking cởi quần áo tắm giặt bằng xăng , cũng chỉ  trong chốc lát thôi , sạch  và khô ngay , sau đó vào Messhall , có nhiều người nhìn Tôi vì người Tôi bốc lên toàn mùi xăng và tay khô mốc trắng lên. Từ việc này Tôi hiểu thêm CH.34  chỉ có một loại đặc biệt la C H.34 Modern  D  được thiết kế khác với những Modern khac là Clutch không phải Engage bằng Hydraulic  , mà bơm thẳng  trực tiếp từ bình nhớt máy lên . Nhắc tới đây Tôi mới nhớ là hồi tháng 3 năm 1968   Tôi  thực tập ở  Cần Thơ , hình như Phi Đoàn 217 thì phải , hôm  đó  Tôi  được cắt đi bay với Tr/u Quang  bay liên lạc chở một Trung Tá hai Thiếu tá và 3 Đại úy từ BTL Quân Đoàn 4  đến Tiểu Khu Sa Đéc, vì không có chỗ đáp nên phải đáp tại sân vận động bên cạng đường cái , Ong Trung Tá nói làm việc một lát sẽ về ngay , nên PHĐ không phải vào, vậy mà chờ từ 8  giờ sáng đến 12 giờ trưa , vẫn không thấy ai ra  mời vào dùng cơm , Tr/u  Quang , nhờ Tôi ra ngoài mua 3 ổ bánh mì và 3 bịch trà đá , ba thầy trò ngồi  gặm bánh mì mãi cũng  chẳng thấy ai ra , cho tới 14 giờ…. Mấy Quan mới lò dò đi ra và họ nói Tiểu Khu mời họ dùng cơm và vì mải làm việc nên quên mất PHĐ họ xin cáo lỗi…. Anh Quang nói Em cạy cái rơ le  nằm ở dưới Pilots Pitch Stich ( thường hay gọi là colective) và Anh đề máy, nhưng máy cứ kêu cọc cọc- cọc mà không nổ. Anh bước xuống xin lỗi Tr/T vì  máy bay bị yếu bình  điện nên không thể nổ máy được , mà bình điện máy bay hiệu số điện thế đến 28 volt , nên bình xe  hơi không thể phụ cho nổ được , hay là Tr/T nhờ  quý vị đây đẩy lui Phi Cơ xuống  đầu gôn  , rồi tôi đề lại thử xem, các ngài Bộ Binh hăm hở đẩy lui máy bay và rồi đẩy tới , máy bay cứ đề , họ  cứ đẩy  và cứ  cọc cọc rồi lại cọc cọc mãi cho đến cuối gôn  bên kia Anh mới cho Tôi bỏ rờ le ra và rồi U..Uumm  một tiếng , những hành khách hả hê vì đây là một chiến công mà họ đã làm cho phi cơ  nổ lại được … Tôi  thật hoang mang chẳng hiểu gì cả, trong khi đó trên cockpit hai phi công thi nhau cười và Anh Quang nói Mẫn ơi chú không được cười đấy nhé, họ nhốt hết bây giờ đó thật tình mà nói  Tôi có hiểu gì đâu mà cười…. Khi về Anh Quang mới cắt nghĩa  cho Tôi  hiểu , và đây cũng là bài học kỹ thuật vui trong đời . Hồi đó các vị Sĩ Quan cao cấp bên Bộ Binh chưa hiểu gì về máy bay nhiều , sau này họ rất giỏi lại còn biết bay nữa , nhờ đi nhiểu và Pilot đã  dạy  họ lái.
      Tiếp tục cho đến ngày 5 tháng10 năm 1968 (TAI NẠN CỦA PHĐ  T.TRONG SÂM MẪN ) Ngày đầu tiên  Tôi bị tai nạn , và cũng kể tù ngày Tôi về PĐ hôm nay mới có tai nạn. 3 PHĐ biệt phái FOB.I  sáng sớm khi đến nơi  ,3 chiếc đều đồng loạt múc một cái trước trại , đánh một vòng rồi mới đáp xuống  , sau đó vào Messhall dùng bữa sáng theo khẩu phần của  người Mỹ ,  rồi 3 trưởng PC là Anh Phan Văn Thanh Anh Nguyễn Tấn Trọng & Anh Nguyễn Tấn Hiền  vào nghe Briefing  còn lại vào CLUB uống nước , hay  vào phòng nghỉ chơi bài hoặc Domino , các  TPC họp xong , ra  nhập vào đám đánh bài , tất cả standing by  cho đến  10 giờ thì được lệnh đi thả một toán ,  ở phía Tây A SHAU gồm 7 troops Anh Phan Văn Thanh bay chiếc đầu thả 4 troops , còn Anh Nguyễn Tấn  Trọng chiếc thứ nhì   thả  3 troops  Anh Nguyễn Tấn  Hiền bay Air Cover , khi Đ/u Thanh xuống ở dưới địch quân bắn lên dữ dội , nhưng Đ/u Thanh chẳng nghe gì cả ( và mọi người cũng thường gọi Anh lá Thanh điếc ) , thả xong chiếc thứ nhì tiếp tục xuống , thả 3  troops còn lại , khi vừa cất cánh lên bay vòng để lấy hướng đi lên , thì Tôi thấy rõ ràng cò mất tên VC  đang chạy và PC bị bắn trung mấy phát nghe Bộp..bộp… lúc đó Tôi thấy chùm giây  điện trước cửa phòng hành khách bị cháy , Tôi vội  tháo một găng tay ra đập , còn một găng kia Tôi  chup vào chùm giây điện nó tắt ngay , thì bất ngờ , ở dưới  VC bắn lên ngay trước chân  Tôi , Tôi  trông thấy rõ ràng sàn tàu mở ra  , trong vài giây xăng phụt lên  , Tôi vội đạp  lên chỗ đó , thì liền bị thêm một phát nữa  và  Tôi thấy Transmission ở trên đầu bắt đầu chảy nhớt  . Tôi báo Đ/u Trọng , Anh nói bịt  nó lại , nhưng làm sao bịt được  , lỗ đó vừa to lại vừa nóng , Đ/u Trọng nói tìm hướng đáp ,,,, thế là PC phải đáp khẩn cấp, sau khi xuống tới đất cỏ voi cao hơn cả máy bay ,  Đ/u Trọng nhẩy xuống và chay rất nhẹ nhàng , hình như Anh có võ thì phải, Th/u Sâm vội  chụp  cây đại liên và kêu Tôi ôm giây đạn , thật là khó chạy vì  cỏ rất dày mà giây đạn thì có khía , nên cứ giật người lại , nghe đạn  địch bắn  cóc, cóc cóc, nghe trên đầu rào.. rào.. rào, Đ/u Hiền theo dõi chúng Tôi  chạy Anh  lao xuống rước , máy bay cao thế mà Đ/u Trọng nhẩy lên dễ dàng , Tôi và th/u Sâm leo lên không được, Một Y tá người Mỹ trên máy bay và Tr/s Năng  lôi Tôi và Th/u Sâm lên, Anh Sâm lập tức nhẩy đến bên hông cửa sổ rút rulo ra và chỉa xuống , thấy vậy Tôi  cũng theo quáng tính ,bắt chước núp bên cửa sổ ,  móc colt 45 ra lên đạn và cũng chỉa xuồng , nhưng lên đạn vài cái cơ bẩm  chạy ra giữa  , thôi chết hết đạn rồi , Tôi quê quá tiu nghỉu nghồi xuồng ghế, Thật là lính  mới tò te. Sau  đó  Đ/u Thanh gọi PC oanh tạc , đến phá hủy máy bay… Khi về đến PĐ  phi đoàn trưởng Tr/t Đặng văn  Phước và Đ/T Khánh , ra bắt tay , ba người về từ đỉnh núi , rồi thưởng mỗi người một ly rượu mạnh, chỉ có vậy thôi… Buổi chiều PĐT Phước,  mời toàn bộ Nhân Viên Phi Hành ra nhà  Hàng Việt  Nam,  bên bờ sông Hàn, Mãi đến 31 tháng 12 năm 1968 , Từ Phi vụ này Tôi được một huy chương Phi Dũng Bội Tinh Cánh  Chim Đồng ,Theo QĐ số 1108/TTM/TQT. Sau tai nạn này Tôi được thăng cấp HẠ SĨ  , kể từ ngày 09 tháng 08 năm 1968 , do QĐ số  13903/PCHC ngày 26 tháng 11 năn 1968.
     Ngày 30  tháng 11 năm 1968  ( TAI NẠN CỦA PHĐ  MINH NĂM THÂN ) Bốn PHĐ biệt phái FOB.I   Trưởng Phi cơ gồm Đ/u Phố Tr/u Minh Tr/u Sinh Tr/u Huờn và cũng như thường  lệ khi bay ngang trại , phải  làm động tác múc một  vòng  rồi mới đáp  , có  mấy tay trưởng trại  người Mỹ , thích quay film ,  những chiếc máy bay CH.34 lượn trên bầu trời , trước cổng trại và phải nói 219  có nhiều tay múc và lượn lên rất đẹp , sau khi làm thủ tục ăn sáng , trưởng phi cơ vào nghe Briefing, những người khác vào phòng nghỉ . Tôi  thấy chột bụng , vào nhà vệ sinh công  cộng  của  Team , nơi đây được cất bằng gỗ và là nhà sàn ,  ở  dưới có một thùng phi cắt ngang ,  trong đó có chứa một  chất  lỏng , để chống bốc mùi, dung dịch này giống như dầu gazon nhưng không phải , Tôi gặp Th/u Hướng Văn Năm ngồi kế bên , hai Anh Em tâm sự nhiều … Th/u Năm hỏi nhiều về gia đình Tôi và quan hệ giữa Tôi  và Đ/u Phan Văn Thanh,  Tôi  không ngờ đây là  lần tâm sự cuối cùng , của Th/u Hướng Văn Năm … Đang nói chuyện thì chợt nghe thấy tiếng H.34 sành ..sạch.. ngoài đường, Th/u Năm la lên  , chết rồi Bay.. bay. Thế là hai Anh Em vội vàng vệ sinh và kéo áo bay lên thật lẹ làng phóng ra phía cổng, Th/u Năm người dong dỏng cao và chay thật nhanh , thế là phi vụ bắt đầu.
     Lượn một vòng , 4 chiếc C H.34 lần lượt đáp xuống Phi Trường Cam Lộ , gọi là phi trường , nhưng đây chỉ là một đường đất , mới làm phẳng  và hai bên còn  đang đào  , cống rãnh ngổn ngang. Sau một lát Leader  vào ban chỉ huy  làm việc trở ra và các Trưởng PC chụm nhau lại bàn tính , cuối cùng quyết định Anh Tr/u Nguyễn Kim  Huờn ở lại,  chỉ có 3 chiếc đi thôi, vì đây là một phi vụ đặc biệt, thả một  Tù Binh về đơn vị gốc của Họ, và phía Mỹ đã Contact với  Địch Quân , Họ đã sắp xếp vị trí đáp , ở khu vực gần  đường mòn 922 Hạ Lào. Và Anh Huờn ở lại  , theo yêu cầu của Tr/u  Nguyễn Văn Minh ( còn gọi là Anh Minh Bánh Bèo ). Khoảng 14 giờ Ba chiếc H.34 lần lượt cất cánh và chỉ còn chấm nhỏ rồi mất hút tận chân trời… Còn lại ba thầy trò Huờn Long (đen) Mẫn, Tr/u Huờn tâm sự. Tôi là bạn thân của thằng Minh, vì Tôi mới ra PĐ có vài ngày , và  đây cũng là phi vụ  đầu tiên ở 219  nên thằng Minh nó không muốn Tôi đi , nên nó đã tình nguyện bay thế chỗ  của Tôi .
     Cho tới  khoảng  16 giờ 30 , thi bắt đầu nghe tiếng H.34 và chỉ  thấy có mộ chiếc bay về , mọi người  giật mình và cảm thấy hoang mang, lúc đó mây bắt đầu thấp , và cứ nghĩ  là họ còn đang trên mây, khi Đ/u Huỳnh Văn Phố ( còn gọi là Hoàng Phố trong Z 28 của Tống Văn Bình) đáp xuống và cho biết  trong khi Đ/u Phố đáp xuống thả Tù Binh, thì hai chiếc Minh & Sinh  Air cover ở trên vì Anh Minh & Sinh bay vòng chờ   quá xa LZ ( Landing Zone)  vì bảo mật nên khu vực  khác  Địch Quân không biết vì thế Họ bắn phòng không lên và trúng PC của Tr/u Minh , Thấy PC xịt khói trắng và đâm nhào xuống đất gẫy làm ba khúc không nghe tín  hiệu gì cả , và chỉ trông thấy một nón  trắng văng ra, ơ dưới Địch Quân bắn lên như đan lưới , biết không thể cứu được Anh bỏ về, nhưng Tr/u Tôn Thất Sinh  còn ở lại  tìm kiếm, rối mọi người chờ đợi , thật là sốt ruột và lo lắng… mãi đến 17  giở 30  Trời vừa hơi sẩm tối , mới nghe tiếng máy bay, nhưng không thấy đâu cả , Đ/u Phố vội lên mở vô tuyến và liên lạc , thi thấy Tr/u Sinh  mờ mờ  trong đám  mây khói, vừa kịp chui xuống thì mây bít lại, Tr/u Sinh bước xuống máy bay và chay ngay lại chỗ Đ/u Phố , hỏi sao Anh Phố về sớm và báo tình hình của  PHĐ MINH NĂM THÂN., lúc đó Đ/u Phố đang ngồi dưới một thân cây khô và nhỏ nhẹ  trả lời    Rồi hai người thân mật nói chuyện  với nhau bằng  tiếng Ả RẬP.  Tr/u Sinh chẳng nói gì  thêm và bỏ vể máy bay của mình, anh nói với Copilot  của mình Anh Em khi làm việc ( ý nói Hành  Quân) , phải thương yêu nhau như Anh Em ruột và như chính bản thân mình , Ai cũng chỉ có một sinh mạng , do Cha Mẹ khó nhọc sinh ra và dày công nuôi lớn , được thành người như chúng ta bây giờ, nếu mất đi một con người , có uổng phí lắm sao, nếu chúng ta cứu được một người , thử hỏi  , có phải chúng ta đã báo đáp biết bao nhiêu công lao , sức lực của đấng sinh thành rồi  không. Đây là câu nói của một thanh niên độc thân. Kể lại khi Tr/u Minh bị rớt , Anh Sinh bay  lượn nhiều vòng ,   lúc xuồng thấp , lúc bay ra xa , cố gắng  xem có ai còn sông sót , ở dưới đạn bắn lên cứ như mưa , Anh liên lạc vô tuyến cứ gọi … rồi gọi … xem Tr/u Minh hoặc Th/u Năm có còn ai trả lời không , nhưng vẫn bặt vô ấn tín, cuối cùng thất vọng , Anh đành quay trở về, nhưng khi trở về thì mây bít kín, cứ thế mà cỡi mây , Anh hỏi Copilot có bản đồ không , nhưng không ai mang theo cả  , Anh hỏi xuống dưới Mevo Năng chú  hỏi xem nhân viên  Y Tá Người Mỹ,  có mang theo bản đồ không ? nhưng  người Y Tá này , chỉ có một cái bản đồ nhỏ ở khu vực LZ thôi. Rồi mò mẫm bay  một lát sau , Mevo Năng la lên ở dưới hình như có anh đèn , Trời những tháng này mau tối lắm ( người ta có câu tháng 10 chưa cười  đã tối ) vì  tháng này bước vào tháng 10 ta rồi , Anh Sinh vội  descends  thật nhanh ,  may sao lại đúng phía dưới  là Cam Lộ.
     Từ ngày đó , Anh Tr/u Nguyễn Kim Huờn vừa kịp ký Circuit Arrivee  về PĐ 219 , lại vội vã ký Circuit  Dèpart , Anh đi cũng phải , vì đây là nỗi ám ảnh đau thương  , mà một người bạn vì thương Anh đã thế chỗ cho Anh, chắc hẳn Anh còn phải nhớ mãi điều này….
     Đầu năm 1969 ( Tai nạn của PHĐ  LIÊM M.HÙNG LỢI ) Bị bắn cháy máy bay , tại A.Shau-A.lưới , khi rơi xuống , Tr/u Nguyễn Thanh Liêm và Th/u Bạch Manh Hùng bị phỏng nhẹ , Cộng  quân phát hiện máy bay rơi , đến ngay lập tức , Họ dùng mã tấu phất cỏ để truy tìm , Mevo Nguyễn Văn Lợi chạy một nẻo… hai Pilot chạy một nẻo… Hai Anh bị mã tấu phất ngang đầu, cố nằm rạp xuống để tranh phát hiện, vì cỏ cao và day, nên địch quân không phát hiện được, chỉ nghe họ chửi đổng Mẹ Bố nó… mới rơi đây mà chúng nó đã chạy đâu mất Rồi Họ cũng sợ bị phục kích nên bỏ đi ngay. Cũng chính vì điều này,  khi máy bay vòng chờ để tìm mà không thấy, suốt buổi sáng cho đến trưa , mới đón được hai Pilot, nhưng vẫn không thấy Mevo lợi đâu cả, và cho đến gần xế chiều , mới tìm ra Mevo Lợi . Sau chuyến này , Hai Pilot dưởng thương và về Bộ Tư Lệnh Không Quân,  nhận nhiệm vụ mới , còn Mevo Lợi được nghỉ phép nhiều  ngày , để ổn địng tinh than,  vì không bị thương , nhưng sau  đó , Mevo Lợi đã lạm dụng phép qúa lố đến vài tháng , và bị báo cáo đào ngũ. Sau phải rời PĐ.
     Tháng 3 năm 1969 ( Tai nạn của PHĐ DU SƠN  BÌNH ) bị bắn rơi gần Leghorse, Bị Địch Quân đuổi bắt , Tr/u Nguyễn Du chạy và bị bắn chết , còn Th/u  Lê Long Sơn ( Sơn đen) , và Mevo Hồ Đắc Bình bị bắt , Cộng quân sợ hai người này chạy , nên bắt cởi bỏ giầy đi chân không, vì không quen đi chân không nên đau chân vô cùng. Chuyến này Đ/u Phước (Đạo dừa Leader ).
     Ngày 4 tháng 4 năm 1969 17 tháng 3 Am Lịch  (Tai nạn của PHĐ  Tr/u TÔN THẤT SINH Th/U VŨ TÙNG H/S NGUYỄN VĂN PHƯƠNG). Nhận Phi vụ  vào tiếp tế cho một toán Team ở ngã ba biên giới qua khỏi Leghorse , được biết  địch quân rất đông , vả họ ở vị thế  chắn ngang đường bay , vì vậy phải bay vòng qua một dãy núi rất xa,  mới tiếp tế được , khi tiếp tế xong , Tr/u Sinh quyết định bay thẳng , không đi vòng nữa , khi bay ngang  nơi địch  quân , như  đã được báo , ở dưới bắn lên như mưa, cuối cùng nghe được tiếng Anh Báo trên Vô Tuyến Tao bị thương rổi , rồi  máy bay Anh bị đâm nhào xuống , cháy ngay lập tức , Hoả lực địch quân rất mạnh , không thể nào tiến sát nơi phi cơ của  Anh rơi được , cho đến khi Fantom đến , dẹp bớt được hoả lực , cũng chỉ bay đến  gần thôi, vì địch quân vẫn chống trả,trên cao quan sát thấy máy bay của Anh ,chỉ còn lại phần động cơ phía trước , như cái cùi bắp, hoàn toàn cháy rụi.
       Ngày 17 Tháng 8 năm 1969 ( Tai nạn của PHĐ  PHƯỚC  đạo dừa COPILOT? NĂNG )   Phi vụ này thả Team gần Leghorse , khi đáp xuồng bị bắn , Mevo Trần Tuấn Năng bi thương nơi  cánh tay và  bàn tay trái , viên đạn trợt ngang mắt kinh Ray-ban làm gãy gong , nhờ mắt kính viên đạn trợt ra ngoài, Năng được giải ngũ từ dạo đó.Trong thời  gian này , những Phi Công Hoa  Kỳ  của Phi Đoàn 361 PINK PANTHER, thuộc Bộ Tổng Hành Dinh Vũ trang Hoa Kỳ ở Pleiku , đã hết lời tán  dương Phi Đoàn 219 KINGBEE và Đ/U Trần Văn Phước ( Phước Đạo dừa)  trong bài viết trên tạp chí  DIỀU HÂU (HAWK) của Không Lực Hoa Kỳ, và bài viết như sau :

   KING BEES NHỮNG PHI CÔNG TRỰC THĂNG CỦA RIÊNG VIỆT NAM.
     Chiếc  trực thăng (TT)  Choctaw cũ kỹ CH.34  đột ngột nghiêng cánh , nhanh chóng lao xuống LZ, những Biệt Kích Việt Nam (BKVN) rời khỏi chiếc  Trực thăng thiện chiến. Một chiếc Slick Huey , Cobra  AH.1G quan sát kỹ  lưỡng, tiếng gầm rú trên đầu ngọc cây, xuất hiện chiếc thứ nhì hướng dẫn ,  bay cao ở phía trên là một chiếc Snake khác  ,truy tìm sự phản ứng của  địch quân, chiếc thứ nhì , trên chiếc này, những BKVN cuối cùng rời khỏi Choctaw, Phi Công kéo cần Colective stick  bay lean, dể trống khu vực , cho chiếc Trực thăng tiếp theo, đưa  BKVN vào trong LZ.
     Cuộc Hành Quân vào miền đồi núi , của những trung tâm cao nguyên Việt Nam . Nó được thi hành một cách trôi chảy,  với trình  độ chuyên môn cao , đã được phô diễn bởi những người  đồng tham dự như :. Những Phi Công bay trực thăng vũ trang Cobra, từ Phi Đoàn 361 Báo Hồng ( Pink Panther) của Bộ Tổng Hành Dinh Vũ Trang  Hoa Kỳ , đồn trú tại Pleiku . và những chiếc CH.34 đã được lái bởi  những thành viên  của  Không Quân  Việt Nam Kingbees, đồn trú tại Đà  Nẵng.
     Hầu hết các Phi Công King Bee, đã được trải qua Huấn Luyện tại trường Lục Quân Hàng Không Hoa Kỳ, ở Fort Rucker , Alabama , còn toàn bộ những thành viên khác được tiếp nhận huấn luyện tại Việt Nam . Tiêu chuẩn thích hợp  của một Phi Công rất cao, đôi khi còn cao hơn những quy định cần phải có , của những Phi Công Hoa Kỳ.Những điều kiện cần thiết của người Phi Công , phải kỷ luật  như còn ở Hoa Kỳ , thêm vào  đó, Học viên phải tốt nghiệp Học Viện.
     Đ/U Hal Manns , một Phi Công Phi đoàn 361 giải  thích , KQVN là một biệt đội bay trực thăng, trong những khu vực  Hành Quân của chúng tôi. Nhiệm vụ của họ là chở  Lính ; Họ không có vũ trang , vì  vậy chúng tôi chuẩn bị vũ khí cung cấp và hộ tống  trong cuộc chiến của Họ .
     Manns nói tiếp ,Đôi lúc gặp những điều thú vị ,như là chúng tôi có ba công việc hoàn toàn khác nhau, ở trong cùng một nhiệm vụ.Không Quân Hoa Kỳ bảo vệ bầu trời ( FACs), KQVN lo về trực thăng vận chuyển Lính , Lục Quân chuẩn bị cung  ứng  vũ trang . Nhưng chúng tôi, tất cả là một phần của Nhóm, làm việc trong  cùng một giới tuyến . Nhiệm vụ chúng tôi làhộ tống KQVN ,cho cả năm  và chúng tôi trở thành thật sự la một Nhóm gắn bó .
     Đ/UBob Garthwaite, một Phi Công Panther nói thêm Những Phi Công KQVN, đang nổi tiếng như Đ/U Phước chẳng hạn. Anh ta có thể làm hầu hết mọi điều , với chiếc CH.34  già nua của Anh ta. Tôi vừa trông thấy Anh ta bay vào LZ mà chỉ cao 150 bộ ( cao khoảng gần 46 mét ) những cây cối bao quanh ba cạnh , chỉ có một đường bay vào  và Anh ta phải bay ra cùng một lối này . Dĩ nhiên Đ/U Phước đã bay được  nhiều năm . Trên thực  tế  Anh ta đã có hơn 3,000 giờ bay ,của những lần bay trên những chiếc trực thăng này , tận  dụng chúng chiến  đấu.
     Chuẩn Uy bậc bốn ( CWO )  Mac Fall , cũng bay với PĐ 361 giải thích  Tôi chỉ vừa đủ 1,000 giờ bay, và tôi bắt đầu bay , từ khi ra trường hai năm  trước  đây. Cũng bởi thời gian bạn nhận 3,000 giờ , bạn thật sự là một Phi Công dày dạn.
     Mc Fall còn nói tiếp Có một ngày chúng tôi được gọi về , chúng tôi là những toán không quan trọng, không thật sự ở trong nhiệm vụ , nhưng chúng tôi mở  máy truyền tin của chúng tôi , vào tầng số chỉ huy . Nghe một chiếc trực thăng vũ trang đã gọi báo, Anh Ta đã bị bắn và  đang đáp khẩn cấp vào trong LZ. Hầu như ngay khi  đó,  máy truyền tin phát lên bằng giọng tiếng Anh hơi rè…rè  . Một trong những Phi Công KQVN trả lời, ( Bạn cleared  để đáp đi ..Tôi đợi bạn ở LZ.) Phi Công KQVN đã bay kè theo vào cuộc hành quân, và như là một chiếc trực thăng thay thế sẵn, để dành trong trường hợp người nào đó, rơi vào hoàn cảnh khó  và chúng tôi cần lúc  khẩn cấp để lấy ra . Anh ta vượt ra khỏi , lấy độ cao , để lại tiếng  sành sạch  của cánh quạt máy bay vũ trang bị nạn ,bên trong LZ , đón phi hành đoàn  an toàn trong tích tắc.
     Chuẩn úy bậc bốn (CWO)  Richard Fluharty, một Phi Công PĐ 361 nói  vài tuần trước đây, chúng tôi mất liên lạc với  Teams , suốt mùa mưa của cao nguyên . Chúng Tôi đang bay trong thung lũng phía Tây bắc Pleiku . Không  Quân dọn dẹp cho chúng tôi vào khu vực hành quân , sau đó trời mưa đổ xuống. Chúng tôi do thám LZ và gọi Phi Công KQVN vào , cố  vấn với họ về những chướng ngại địa thế trong LZ. Con chim đầu đàn bay vào ,rồi khởi hành bay ra theo sau là chiếc  thứ nhì 
     Vào thời gian đó , không nơi nào báo trước  sương  mờ ngăn đường  và mưa mù giăng lối . Chiếc tàu thứ nhì lao vào chở Lính ở trong LZ và bị bắn rất nhiều trong khi cất cánh.
     Chúng tôi gọi về đơn vị  khí tượng  KQ, ở mặt đất và có sự suy đoán qua máy truyền tin rằng, chiếc tàu thứ nhì đã bị bắn rơi , nhưng chúng tôi phải bay xa khỏi LZ, bởi vì sương mù. Nhân viên truyền tin nói thêm rằng, Anh ta không thể trông thấy ngọn cây,  từ nơi Anh ta đứng.
     Bất thình lình, tất cả chúng tôi trông thấy một trực thăng KQVN,  bay ra khỏi sương mù , chúng tôi nghĩ nó là chiếc thứ hai, nhưng chúng tôi kịp nhận ra là chiến thứ ba. Anh ta đã kè theo vào trong phi vụ , và ý thức nhận ra là con chim thứ hai  đã bị tê liệt . Anh ta Hover chỉ vừa 150 bộ trên ngọn cây, trong khi dõi tìm  Đồng Đội  của mình , rồi đáp gần tàu đã rơi  và chuyển khỏi mặt trận một cách thành công, những PHĐ  gặp  nạn  không bị thương tích .
     Fluharty nói thêm, Những người Cover đó thật tuyệt vời , họ làm mọi điều  với những con chim của họ . Điều đó làm tôi sợ hãi . Họ đáp ở trong LZ , với chỉ có độ hở vài  inches  giữa vòng quay cánh quạt chính và cây rừng . Nói tóm lại,  chúng tôi đề nghị vào hồ sơ cho Đ/U Phước,  một huy chương NHÂN DŨNG BỘI TINH ( Distinguished  Flying  Cross ) .
 Phi Công Cobra đã kết luận , Chúng tôi không bao giờ lo lắng khi có họ ở chung quanh , chúng tôi tin chắc rằng , Họ sẽ vào và đón chúng tôi nếu chúng tôi bị tai nạn .
Tháng 5 năm 1969 ( Tai nạn của PHĐ  CROSSMAN THÁI TOẢN )  Ong Major Crossman là một  Phi Công bay Fixwing và là một loại phi cơ  phản lực , ông không rành về bay trực thăng, Ông về Phi đoàn 219 , Đ/u Phố và các Anh khác có huấn luyện  ông bay, ông  rất thông minh  và tiếp thu rất nhanh, sau một thời gian gần một năm trời ông chuyên cần và đã ra được  công nhận là Trưởng Phi Cơ, ông bay rất vững , và phải nói thật ,ông là người rất tốt  và có đạo đức, tất cả các Cố  Vấn  chỉ có mình Ong là được mọi người quý mến và nhớ mãi…. Th/u Thái cũng vừa về Phi đoàn  chưa bao lâu,  đến Mevo Tr/s I Toản , cũng vừa chân  ứơt chân ráo từ Phi đoàn 215 ra .
      Nhận một Phi Vụ đón  Team  Local, Ong Crossman muốn đi thử một chuyến , nhưng khi nhận được chi tiết và địa điểm ở Núi Bạch Mã,  Đ/u Nghĩa và Tr/u  Phố  khuyên Ong không nên đi , nhưng vì tự ái , nghĩ mình có thể bay vào được, thật tình lúc đó phi đoàn muốn từ chối nhận phi vụ này, vì định cắt một  phi hành đoàn khác, tìm cách  tiến đến gần LZ rồi thoái thác không vô  được , vì nơi này gió xoáy và Turbulance đánh dữ dội, phi cơ khó có thể chịu đựng được , nhưng Ong Crossman cứ khăng khăng đòi đi , cuối cùng đành phải để ông bay vào đó, ( Không hiểu sao lúc đo, phòng hành quân  lại cắt hai người mới theo Ong )  Đúng như dự  đoán,  khi Ong bay vào  đến nơi, vừa  Hover để Mevo Toản thả thang  giây xuống, cho Team leo lên, thì Turbulance đánh dữ dội, Ong không thể Control được , máy bay rơi xuống ngay tại cho, lúc đó Mevo Toản mới ra Phi đoàn nhận nhiệm vụ, nghe nhiều người thêu dệt là phi đoàn 219 đi hành quân, hay bị bắn , nên Anh không  dám đứng mà nằm xuồng sàn tàu , Anh cũng không biết đây là Team local , nên khi Tàu đập xuống đất, Anh bị dập ngực xuông sàn chấn thương chết ngaylúc  đó, phi đoàn phải  nhờ Không Quân Hoa Kỳ, giúp cứu hai Pilot và Team ra , KQ Hoa Ky; cử một chiếc Trực Thăng CH.53, loại này rất mạnh , to lớn hơn C H.34 , khi chiếc trực thăng CH.53  dến nới,  Hover thả  Hoist xuồng , vì là Hoist, nên chỉ lên được từng người một , Ong Crossman nhường cho Th/u Thái lên trước, nhưng khi  hoist  kéo Th/u Thái gần lên đến máy bay, thì chiếc CH.53 này cũng không chịu nổi gió xoáy và Turbulance, nên cũng bị rớt xuống ngay, thật không may cho Th/u Thái phi cơ to lớn rơi xuồng đã đè chết Anh. Lúc đó , Major Crossman buộc phải theo Team đi đường bộ về , Sau này Ong Crossman rất ân hận, vì đã không nghe lời Anh Phố, Ong xấu hổ và xin về nước, thật tội nghiệp cho Ong, vì  là người  có đức tánh tốt sẽ khó tha thứ những lỗi lầm của mình , và sẽ làm ông ân hân, ám ảnh ông…
     Cũng trong tháng này, Tôi còn nhớ  lần đó PHĐ  TƯỞNG THU MẪN   Biệt phái lên Kontum, máy bay quan sát đã tìm thấy một toán Team mất tích hơn 6 tháng  trời , theo tín hiệu  Si nhan ( signal) thì hoàn toàn không đúng , nhưng theo một vài nhận định, thì họ là những toán Team  bị mất liên lạc , Trưởng trại B.15 và trung tá  Hoa Kỳ tại đây,  yêu cầu Anh Tưởng thử bay lên tìm hiểu,  nếu có thể tin tưởng hay có tín hiệu đúng  thì đón , đồng thời lúc  đó  điện từ Nha Kỹ thuật, do  Đại Tá Đoàn văn Nu chỉ thị,  bằng mọi giá phải đón  họ, lúc đó là buổi chiều gần sẩm tối , Anh Tưởng bay vòng qua lại LZ nhiều vòng , trời một lúc một tối dần, mà LZ  lại vào vị trí nửa đường từ  B.15 đến sông Mekong , Anh Tưởng quyết định xuống thấp, nếu  họ không có phản ứng tất nhiên không phải địch quân , khi xuông thấp  bay  từ từ xem phản ứng, thấy họ bật hộp quẹt Zippo tôi yên chí , Anh Tưởng nói Mẫn ơi nếu chú thấy  họ có  động tịnh gì là chơi liền nghe không  rồi Anh đáp xuống ba troops nhẩy ngay lên tàu, họ lộ vẻ mừng rỡ , Anh Thu nói với xuống Mẫn ơi coi chừng họ bóp cổ chú đó Tôi trả lời Em nhận ra họ rồi Anh Thu  đùa thêm ừ nó bóp cổ bây giờ đó rồi Anh cười khà khà … Tôi đưa cho họ bao thuốc con mèo  nho, họ vui mừng vì từ đả lâu, họ không còn thuốc lá , họ rít những hơi thuốc mà thấy tội nghiệp , Tôi còn nhớ những người này, lúc chúng tôi thả 5 troops , họ mang theo tiền ba loại  Lào . Cam Bốt , và tiền Cụ Hồ, họ  bỏ mọi thứ trang bị vào trong những thùng nhựa vuông  màu đen, rồi chôn một chỗ trong rừng nơi họ đã đánh dấu. Trong nhóm có hai người là dân bản sứ Lào , Sau khi về  làng của những  người Lào này , hai người này làm phản  ba người còn lại phải chạy thục mạng, bơi qua sông Mekong , bỏ luôn  máy  truyền tin 74, khi bơi qua sông  tư đó họ mất liên lạc , sau nhiều ngày hết  lương thực họ phải ăn lá cây. Trong khóa huấn luyện mưu sinh thoát hiểm có cho biết,  những cây có lá non màu đỏ có thể  ăn  được, còn  vài bịch hành , cà rốt khô trong P.I.R  họ ngậm trong miệng từ từ để lấy  mùi vị  và cầm hơi , họ nói nếu máy bay không đón, thì họ sẽ phải lội bộ về.
      Ngày 01 Tháng 6 năm 1969  ( Tai nạn của PHĐ  KHÚC COPILOT ? VỮNG )   Hôm đó Anh Khúc nhận được lệnh thả một toán team ở Quảng Ngãi, đây cũng là một phi vụ thả team local, khi đến LZ là một thửa ruộng lởm chởm , Anh Khúc  vì  đáp  xuống  ruộng quá nhanh, đã
Làm cho thao tác đáp xuống trở thành  Forced  Landing, và vì Flare đuôi quá nhanh , đập mạnh xuống đất, Tàu xốc mạnh  tưng lên, gía súng không  lốc  lại,  nên súng Đại Liên đập mạnh vào mặt Hà Khắc Vững  . Anh đã chết ngay sau đó.
      Đến tháng 6 năm 1969 Anh Đ/u Trần Văn Luân rời Phi Đoàn về Học Sĩ Quan Tham Mưu .
     Trong những ngày tháng này,  có một lần tôi đi bay với Tr/u  Phạm Ngọc Xuân, Tr/u Nguyễn Quý An Leader  tại  Kontum , đi rước một toán, trước khi bay  Anh Xuân có  dặn  tôi,  bãi  đáp  hơi Slope và cây cối chung quanh lại cao. Team đã  dùng cưa máy cưa trống  một khoảng làm bãi đáp , họ đã cắt còn gốc hơi cao , khi Anh đáp Em nhớ Clear thật kỹ nhé… Khi đến LZ Anh Xuân xuống rất nhanh , và cây cối chung quanh có cao thật , Anh Flare lại  … Tôi la lên coi chừng  cây… và nghe  bộp … bộp …bộp không kịp nữa rồi, chong chóng đuôi đã chặt  vào cây , máy bay đáp xuống đuôi rung dữ dội , Anh Xuân nói để  Tao cất cánh lấy Air speed thử coi … Nhưng vừa dở lean, thân máy bay quay một vòng,  Anh Xuân vội đè cần colective ( pitch stich) xuống phi cơ ịn thẳng xuống mặt đất, lúc đó máy bay chỉ nhích xuống phía dưới dốc  một chút xíu thôi, có thể làm cây nó đội lên ghế Mevo, là người  Phạm Minh Mẫn sẽ bị  đưa lên trên đội lên ghế Pilot , và đầu chắc phải chui vào ngực của mình mà trốn thôi, thật là may,lúc đó   cây nó lại đội lên trước mặt , tôi phải dạng chân ra , và đúng là may that,  vì  chính nhờ  gốc cây này, đã kềm máy bay lại , làm cho nó không bị lật  ngang , và không bị ngẫu lực xoắn, làm máy bay xoat tròn theo trục quay . Thật là hú hồn,  lúc bấy giờ tôi không còn biết làm gì  nữa cả, ngay khi đo, Anh Nguyễn Quý  An bay ở phía trên, muốn xuống nhưng không có chỗ nào để đáp , cuối cùng Anh quyết  định đáp trên Rotor head, gác một bánh trên bầu  tròn  chính giữa Main rotor , lúc bấy giờ tôi rất lúng túng  một tay cầm Form( sổ ghi quá trình kỹ thuật lúc xuyên phi ) và bình chữa lửa , con tay kia ôm  súng đại liên 30 , trong lúc đó ông già Tưởng thả hoist xuống , Tôi chần chừ ,hai tay ôm súng và những vật dụng khác  thì làm thế nào để leo lên đây , Ong già tưởng rút hoist lean, rồi leo xuông la lên  liệng hết đi thằng cù lần , thế là tôi quăng sạch . Ong Tưởng chỉ vào cây súng tôi lượm lại và đưa lên cho Ong , trong khi đó Anh Xuân và Anh Yên râu đã  leo lên máy bay phía trên rồi , Tôi lúc bấy giờ mới leo lên Copitch  và trèo  lên máy bay  phía trên. (Câu chuyện này không biết Anh An và Anh Xuân còn nhớ không Sau này được Tr/u covy của CĐ 2 Nguyễn hữu Thọ kể lại đó cũng là kỷ niệm của Thọ nhảy toán lần đầu tiên kể từ ngày về đơn vị Biệt Kích.)
     Khoảng  10 ngày sau tai nạn của Anh Hà Khắc Vững  và cũng trong kỳ biệt phái này, thì PĐ 219 gặp một tai nạn  thật là nặng nề đó là  ( Tai nạn của hai PHĐ  TRUNG KIỆT ĐỨC & AN KHẢI TƯỞNG  ) Sáng hôm đó  Trưởng Trại B15 và Th/T  Chỉ Huy phía Hoa Ky, yêu cầu Biệt Đội 219, biệt phái tại KonTum, bay đủ 6 chiếc trực thăng  lên  ĐắcTô trực , để đón Đại Đội Biệt Kích trở về , 8  giờ sáng , lần  lượt  6 chiếc CH.34  rulley trên   taxiway,  từ  hướng  Tân Cảnh,  rồi vào Parking phía trái của Phi Đạo , Hai bên  Phi Đạo   Đắc To, lúc này  có những ống cống , bắng tol dợn sóng mái vòm, đặt rải rác khắp nơi, có  một vài công sự  phòng thủ bỏ hoang , Tân dụng những công sự phòng thủ này, trong lúc Standingby PHĐ cùng nhau sát phạt , tôi con nhớ có lần đang đỏ đen, say mê binh sập xám, thì địch quân pháo kích ngay váo sân bay , lúc  đó Anh Trần Quang Trọng  đang mậu binh , bài ai nấy  giữ và cứ thế mà chạy, một lát sau khi ngưng pháo kích , mọi người mới trở ra , thì có một Anh…. lúc đó ai có mặt cũng đều bật cười, và có lẽ phải nhớ mãi đến ngày nay , mọi người ra rồi mà Anh vẫn còn trốn trong ống cống, buồn cười là ống cống để sát  mặt đất , không chui vào được chi lọt có cái đầu , vậy mà Anh ấy vẩn đứng , đầu ở trong ống cống mông  chổng lên trời , có lẽ Anh nghĩ bảo vệ đầu là an toàn nhất, Ay vậy mà tôi cũng có lần gặp tình huống tương tự , ngay tại B.15 , khoảng hai ba giờ sáng khi nghe pháo kích tôi vọt chạy ra , thi ngay trước cửa phòng có ụ pháo  của  trại , họ bắn trả lại địch quân , khi nghe tiếng nổ đâu kịp nhận ra là mình bắn đi , tôi hoảng hồn chạy ngược trở lại phòng ngủ và không biết làm thế nào để phòng thủ , bèn lấy  đại cái mền cuốn ngang đầu cho chắc  ăn, rồi chui vào gầm giường mà trốn.
     Nhắc lại khi 6 chiếc đã vào Parking,  các TPC vào lều chỉ huy để nghe Briefing,  trong khi đó thì  đại đội  đang đối  đầu với địch quân, và quân địch chỉ toàn những chàng trai trẻ và như say thuốc , họ  điên cuồng chiến đấu , vì vậy  đại đội biệt kích  yêu cầu trực thăng khoan vào đón , để cho tình hình lắng dịu, mãi cho đến khoảng 10 giờ thì lệnh hành quân mới được tiến hành Kingbee mới khởi h cất cánh , LZ  nằm ở vị trí phía Tây của Leghorse,   một đồi thấp nằm gần một khe suối .
     Khi Anh Nguyễn Quý An vào đáp thì địch quân bắn lên dữ dội, Anh cố gắng đón được một toán,   chiếc thứ nhì tiếp tục vào . chiếc này bị bắn rơi ngay tại chỗ ( Không nhớ PHĐ này là ai) , Anh An quay lai đón ngay PHĐ bi bắn rơi và quay trơ về , trong lúc đó địch quân đã nắm được toạ dộ đáp  của trực thăng , vì vậy  chiếc TT thứ ba do Anh TRUNG   lái , khi máy bay vứa đáp xuống thì  địch quân đã pháo vào  trúng ngay Copitch phía bên trái ,Copilot là THÁI ANH KIỆT bị trực tiếp hứng viên đạn , Anh Trung  nhẩy xuống khỏi may bay, chay vào công sự , trong lúc  đó  Mevo TRẦN VĂN ĐỨC  chua biết Th/u Kiệt bị trúng đạn , đứng ở dưới Đức  nắm chân Th/u Kiệt mà lắc Anh Kiệt xuống …Anh Kiệt không nghe trả lòi Đức  đẩy ghế Pilot chui lên . Thật   là kinh hoàng   , Th/u Kiệt mất một vai trái và đầu văng đi đâu mất , những giây điện trên copitch bị đứt và cuốn ngang cổ Th/u Kiệt , cộng thêm máu thấm vào trông  như  những sợi gân đong đưa  trên cổ , Mevo Đức kinh hoàng vội vàng  tụt xuống và chạy vào công sự , Một lát sau địch quân pháo thêm lần nữa,  máy bay bị  cháy và lần này thì Th/u Thái Anh Kiệt  vĩnh  viễn không thể về với gia dình và Đồng Đội  được  nữa , dù chỉ là hài cốt , Anh đã hy sinh thật Anh dũng để lại sau lưng bao nhiêu bạn bè đồng đội và người thân một nỗi sót thương  đau đớn  vô vàn …từ đó chiến tranh đã chấm dứt với Anh , Tôi nhớ có một câu nói của PLATE một nhà văn đã nói ONLY THE DEAD HAVE BEEN THE END OF WAR , tiếp sau đó Anh An nhiều lần xuống  đáp nhưng đều gặp sự chống trả mănh liệt của địch quân, không làm thế nào vào  được cả, đành phải quay về , tính kế khác , khi về đến Đắc Tô  Anh được nghe qua máy truyền tin của một radioman khuyên Anh không nên bay vào , để  ĐĐBK  tỉm cách di chuyển ra hướng khác ngoài tầm ngắm của địch quân ,  nhưng Anh  ta nói thòng thêm một câu , tuy vây nhưng tùy Leader định liệu. Anh An cứ suy tính mãi , và đi đến quyết định , không thể để  PHĐ nằm lại qua đêm trong LZ được , rồi Anh nghĩ , có lẽ phải lợi dụng lúc trời tối trong khi đó địch quân sửa sọan dùng cơm , và không ngờ máy bay lại đáp ban đêm , quả là đoán như thần , Anh liên lạc trước với PHĐ  ở dưới, đúng 19 giờ Anh  cất cánh bay thẳng đến LZ , vừa đến nơi Anh lao thẳng xuống không cần đánh vòng , bật  Landing light là  đáp ngay , địch quân không kịp trở tay , Khi vừa cất cánh , địch quân mới vội vàng  bắn vói theo, nhưng không kịp , phi cơ đã lên cao và qua khỏi tầm bắn…
     Qua ngày hôm sau misson vẫn còn tiếp tục , và máy bay chỉ còn lại bốn chiếc , buổi sáng khi lên đến nơi , Anh An quyết định  lên hai chiếc  là Anh  An và Anh Xuân  cùng với hai chiếc gunship và một chiềc O.2  vì Anh cũng muốn tình huống bất ngờ khi bay vào đến LZ  Anh cũng vội đáp ngay, nhưng không ngờ  địch quân cũng đã chuẩn bị trước , khi Anh vừa đáp xuống thì bị pháo ngay vào đông cơ máy bay , làm tắt máy  ngay lập tức , Anh Nguyễn Quý An và copilot Dương Văn Khải, chạy kịp lên đồi vào công sự , trong lúc đó vì bị dằn mạnh  ông   Mevo già Ch/u Phan Văn Tưởng  bị thương nơi chân , khi chui được ra khỏi máy bay , thì bị main blade còn quay chậm đập vào đùi và mông làm ông bị gãy chân , Trong lúc đó tôi đi với Anh Phạm Ngọc Xuân đang bay cover ở trên cao ,khi máy bay vừa rơi xuống Anh xuân vội liên lạc ngay An …nghe không An … rồi Anh lại tiếp tục An… nghe không An … cú như thế rất nhiều lần  sau Anh la lên một tiếng  Chết hết … Rồi…|   thật là não lòng  giọng của Anh đã làm cả tôi lẫn Anh Yên bật rơi  nước mắt ,  không khí  bi quan bao trùm cả bầu trời , cuối cùng cũng nghe được giọng Anh An trong vô tuyến , Anh ra lệnh không được đáp , vì lúc này địch  đang tấn công và bắn nhau dữ dội , Anh Xuân và tất cả các PHĐ khác phải quay về  chờ  lệnh ,tiếp thêm nhiên liệu , sau đó liên lạc về Phi đoàn  ở Đà Nẵng , lập tức tấp  cả các Staff  vội vành lên đường  bay thẳng lên Đắc Tô,  gồm có các Anh Th/T  CHT  Đặng Văn Phước , Anh Trần Văn Luân , Anh Nguyễn Hữu Lộc và Anh Nguyễn Văn Tưởng  , Khi các Staff  bay lên đến nơi cũng chỉ  là  thị sát thôi vì  tình huống lúc bấy giờ không cho  phép một chiếc nào xuống nữa cả , mặc dù Ong già Tưởng  bị thương nặng không đi được , và cuối cùng Anh An  điện  về cho hay là Team sẽ phải  di chuyển vì lúc này hai bên đang đụng độ khốc liệt, Nước dọc theo  con suối nho, đã chuyển sang màu đỏ, vì người chết quá nhiều dọc theo hai bên bờ suối , không thể uống được  nước này nữa , chính vì vậy Đai đội biệt kích và Phi hành Đoàn  của Anh An phải  di chuyển . Ong già Tưởng sẽ do một số Anh Em Team thay thế kéo ông đi , Họ dùng hai cây rừng buộc cái  mền  hoặc  cái Pông sô cho Ong nằm trên đó , một người  kéo ông đi .Trong lúc đó những  PHĐ ở Đắc To, thấp thỏm chờ  đợi … mãi cho đến chiều mới được tin từ một Radioman báo về,  họ đã di chuyển được xa vùng địch quân , đang tìm bãi để trực thăng  có thể đáp được , Rồi việc phải đến cũng  đã đến , Nhận tin báo cho biết LZ đã hoàn tất , Cuối cùng PHĐ của Anh An cũng đã được đón về , chấm dứt  nỗi đau đớn xé thịt mà Ong già Tưởng phải chịu đựng trong suốt đoạn đường  di chuyển , vì bị kéo lê nhiều cây số đường rừng. Sau vụ này Ong già Tưởng được giải ngũ với cái chân bị thương tật.
     Cũng trong tháng này, Anh Trần Văn Luân rời Phi Đoàn, giao CH Phó lại cho Anh Nghĩa & Anh Lộc thay Thế  chức vụ Trưởng PHQ.
     Tháng 8 năm 1969 (Tai nạn cúa  PHĐ  VINH COPILOT? THANH )  Tai nạn này ở  Kontum , buổi sáng được lệnh  lên tiếp tế cho đồi H.four, đồi này thoai thỏai không cao nhưng gió xoay rất mạnh , dễ bị turbulance nếu tay lái không vững  có thể bị mất tua, Anh Be cũng đã rớt tại nơi này và bị bể xương dầu phải lót một miếng Platin trên dầu. Và đúng như vậy,Khi Anh Vinh bay đến đồi H.four, đã bị turbulence làm phi cơ rung chuyển không điều khiển được, bị rơi phía dưới sát hàng rào phòng thủ, Phi Cơ bị lật ngang, Hai Pilot chay xuống phía dưới dốc, còn Mevo Thanh có kinh nghiệm hơn, Anh nghĩ máy bay bị lật ngang xăng sẽ chảy ra và theo triền dốc xăng sẽ xuôi theo  đó nếu PC bốc cháy sẽ bị cháy theo, vì vậy Anh chạy ngược lên đồi , và tai nạn đã xảy ra, Anh đạp trung mìn CÓC , và bị mất đi bàn chân trái,  Sau khi trị thương đã lành hẳn , Anh được giải ngũ.
     Tiếp đến tháng 9 năm 1969 Anh Nghĩa rời Phi Đoàn sang Mỹ làm sĩ quan liên lạc tại Fort Wolters. TX.Tôi được lên cấp HẠ SĨ NHẤT Đặc cách  kể từ ngày 01 tháng 09 năm 1969 theo QĐ số 55252/TTM/KQ ngày 29 tháng 09 năm 1969. Lúc đó các khóa đàn Em ra trường đều là Trung Sĩ . Chính vì điều này Bộ Tư Lệnh KQ mới điều chỉnh lai cho Tôi là lên TRUNG SĨ  diều chỉnh kể từ ngày 18 tháng 07 năm 1969 theo QĐ số 5290/TTM/KQ ngày 11 tháng 04 năm 1970
     Đến cuốn năm 1969 tiếp tục Anh Tống Phước Hảo & Anh Đỗ Văn Hiếu cũng  sang Hoa Kỳ làm Sĩ Quan Liên lạc tại Fort Hunter.
     Lúc này Anh Nguyễn Hưu Lộc thay thế Phi Đoàn Phó.    
          Ngày 11 tháng 05 năm 1970 (Tai nạn của hai PHĐ VƯỢNG SANG TRUẬT & CUNG ĐẠT LIÊN ) Lần biệt phái này Biệt Đội 219 tại B.15 Kontum  chỉ làm việc có 4 PHĐ  gồm có  Flight Leader  Anh Nguyễn Văn Tưởng và Trưởng Phi cơ 3 chiếc còn lại là Anh Ngô Viết Vượng & Anh Đặng Văn Cung đều là I.P ( huấn luyện pilot )của Phi Đoàn con Anh Trần Văn Long lúc đó vừa mới ra Hoa Tiêu Chánh , Vì chỉ có  4 Crews và đến 3 người là I.P  nên Anh Tưởng chi cho mỗi ngày bay  3 Crews để  Anh Em còn có thời gian nghỉ ngơi , Hàng ngày 3 PHĐ đều bay lên Đức Cơ, trực ở đó  chờ Trưởng trại  có việc Họ báo vào Briefing , thời gian này chiến trường Cambốt ( CamBuchia) đang sôi động,  vì vậy  Bộ Tư Lệnh Không Quân Việt Nam , yêu cầu Phi Đoàn 219 về Tây Ninh tăng cường làm việc cho Tiểu Khu Tây Ninh , chính vì thế Phi Đoàn 219 rất bận rộn trong thời gian này.
     Sáng sớm ngày 11 tháng 05 năm 1970 , Anh Tưởng đến phiên được nghỉ Anh cùng Copilot và  Mevo Nguyễn Thanh Cần ra phố sớm để ăn sáng ,  ba Phi Hành Đoàn làm việc sửa soạn lên đường bay lên   Đức Cơ , khí hậu lúc này vì là mùa mưa, nên ẩm thấp , mặc dù đã hơn 8 giờ sáng nhưng sương mù lất phất chưa tan , Mọi thủ tục check tàu trước khi bay đã hoàn tất , cả ba chiếc lần lượt cất cánh bay thẳng về hướng Đức Cơ , khi gần đến làng  Pleizơhai trời bắt đầu mưa , và Anh Cung  yêu cầu tất cả Monter  lên cao,  để có thể tránh mưa ở dưới thấp , trời mỗi lúc lại càng mưa lớn hơn , mây mù khắp nơi , càng lên cao càng đen trời , Anh  Trần Văn Long  cảm thấy tài năng của mình có giới hạn .  Vì mấy tháng vừa qua Anh bị Mevo Công méo trong buổi họp của Phi Đoàn đã tố cao Anh là Đ/U Long đáp LegHorse 2,700 2,800 xuống còn 2,350   thế là  Đ/U  Long bị huấn luyện  lại và cho xuống Copil pilot một thời gian nữa .Lần này đáng lẽ Anh bay với  Mevo Trần Văn Liên, vì Liên mới về, nhưng Anh Tưởng xét thấy hai Anh Em không thể bay chung một chiếc được vì vậy đẩy Tôi xuống bay chung với Anh Long. Lúc này Anh Long biết  mình  không đủ khả năng đã lên tiếng trong Interphone  Đ/U ơi Đ/U tôi bay không nổi tôi muốn quay trở lại  Anh Vượng mới trả lời Ừ thằng Cung thằng Long thấy  đi không được thì quay lại đi… Anh Long lập Tức descends xuống . Câu nói của Anh Vượng lúc đó thật là thiếu cẩn thận đối với Anh Cung vì giữa hai  Anh đều là I.P cả  như vậy làm sao Anh Cung quay trở lại được . Nói về Anh Long , khi cho Phi Cơ xuống  mây mưa càng lúc càng nhiều, không thấy đâu là trời đất cả ,thình lình Tôi trông thấy những thửa ruông vuông , vuông lờ mờ phía dưới càng lúc càng dâng lên mặt  , Tôi vội la lên coi chừng tới đất đó , Anh Long vội recovery và Phi cơ vừa gần chấm mái nhà của người dân tộc thiểu số tại đây , và đây cũng là làng Pleizơhai ( mà dân KonTum thường gọi là làng Ma Lai ) , Phía mặt đất vẫn còn mưa , Anh Long phải vừa bay vừa Hover từ từ , quay về KonTum, trong vô tuyến của Máy bay Tôi nghe được giọng của Anh Cung  nhắc nhở Qua trái núi Qua phải…núi rồi một lát sau Tôi nghe tiếp cũng giọng của Anh Cung, Vượng ơi! Mày dắt như vậy là giết hết Anh Em rồi….. Và đó là tiếng nói cuối cùng của Anh mà Tôi đã được nghe.
     Nói về Anh Long , sau đó gọi nhiều lần cho anh Vượng và Anh Cung , nhưng không nghe ai trả lời cả , Anh vội vàng  lầm lũi bay về , nhưng thật tình không biết tâm trang Anh lúc đó như thế nào , chỉ có Anh Yên là có thể đoán được thôi, vì Anh Yên ngồi kế bên, còn Tôi thì không nghe Anh phát biểu điều gì cả , khi bay về tới KonTum Anh  bay thẳng ra Phố  và cứ thế vòng vòng chung quanh Phố chính, đường Lê Thánh Tôn. Bay nhiều vòng xong, Anh quay về đáp xuống Parking B.15  , chờ một lát thì qủa thật PHĐ Anh Tưởng vội  vã quay về trại , Anh chay ngay ra Parking hỏi Chuyện gì vậy Long Anh Long mếu máo Anh  Vượng & Cung bay vô mây  không liên lạc được  Anh Tưởng nói  Chắc tụi nó bay tới Đức Cơ rồi chứ gì Anh Tưởng lên máy bay không mở máy mà chỉ mở vô tuyến gọi thử ,  cũng không nghe trả lời , Anh Tưởng vội vào  Bộ Chỉ Huy của Chiến Đoàn , nhờ gọi thẳng lên Đức Cơ , hỏi xem hai chiếc đã đáp chưa , và được biết chưa có chiếc nào đến Đức Cơ cả ,  Bấy giờ anh mới hoảng ,  chạy thẳng ra Phi Cơ mở máy tiếp tục gọi , Trời bắt đầu Clear và nắng bắt đầu toả xuống vạn vật , Anh Tưởng và Anh Long mỗi người một chiếc bay lên và thi nhau gọi Vượng nghe không Vượng … Cung nghe không Cung … và cứ thế Hai Anh thi nhau gọi , sau đó Anh Tưởng gọi về Phi Trường  Cù Hanh ( PleiKu ) hỏi xem có chiếc nào đáp không , Nhưng ở đó họ cũng trả lời không thấy , rồi Anh Tưởng hỏi các Đài không Lưu ở khắp nơi, nơi nào có thể liên lạc được Anh đều hỏi, nhưng vô vọng, không ai phát hiện thấy hai chiếc trực thăng  này cả , Hai Anh cứ tiếp tục hỏi và bay vòng trên núi cao ngăn đôi giữa KonTum và Đức Cơ , nói rõ hơn dãy núi này ngăn cách giữa làng Pleizơhai và làng PleizơReng (  Đồn của LL.ĐB  gọi là Lệ Minh ) và cứ thế mà bay vòng cho đến trưa khoảng gần 12 giờ  đang bay trên đỉnh núi , thì bất chợt Tôi nhận thấy có một vài nhánh cây, mới gẫy  trên ngọn  còn tươi, Tôi vội báo ngay cho Anh Long Anh Long ơi hướng ba giờ có nhánh cây bị gẫy Anh Long hỏi ngay Đâu đâu và lập tức Anh quay lại  Anh bay từ từ theo dấu nhánh cây gẫy một đoạn xa , lúc này nhìn xuống phía dưới thấy một máy bay bị gẫy làm ba , nhìn xuống  máy bay rất nhỏ , chứng tỏ cây ở đây rất cao , Anh Long gọi ngay cho Anh Tưởng. Hai Anh cứ từ từ bay vòng, lấy rộng  ra lần lần , chúng tôi 6 người cứ thế mà dán mắt xuống dưới rừng  tìm kiếm , cuối cùng Anh Tưởng trông thấy  một người đang cầm miếng vải đỏ ở dưới thung lũng xâu cách xa chỗ rơi máy bay nhiều cây số , đàu đội nón nâu như lính  Nhẩy Dù hay Biệt Động quân , đang ra tín hiệu , Anh Tưởng và chúng tôi đều  nghĩ , không biết người này đang ra dấu cái gì, vì nếu là Lính hay là NVPH ít nhất cũng phải  biết sử dụng miếng vải Si nhan ( Signal) . Anh ta là ai và muốn gì , Anh ta sử dụng miếng vải đưa lên đưa xuống như vẩy nước ở trong khăn cho khô , Anh Tưởng cũng phải xuống gần xem sao đã … Anh cũng lo vì thung lũng này bao quanh là núi , nếu có tình huống gì rất khó phản ứng , gần xuống đến nơi Anh phát hiện ra Mevo Trần Văn Liên. Anh la lên Long ơi Long  … Thằng Liên … Long ơi   Anh Long hoảng hồn Thằng Liên hả Đ/U … rồi Anh quay qua Copil Yên nói trong nghẹn ngào Yên ơi… Yên …mày bay đi tao chết… rồi Anh buông cần lái , không biết tâm trạng Anh Long lúc đó thế nào , và Anh chẳng nói được gì nữa cả … Trong khi đó Anh Tưởng không thể xuống được nữa vì dưới đó quá xâu , Anh nói với Mevo Nguyễn Thanh Cần ra dấu cho nó ở đó chờ , đi xả bớt xăng cho nhẹ Tàu rồi mới xuống được . Anh bay thẳng về  Buôn Pleizơhai,  đáp xuống ruộng xả bớt hai bình xăng , sau đó Anh bay lên và nói với Mevo Cần buộc giây ba chạc vào Hoist thả xuống , ra dấu cho nó  luồn hai chân vào giây ba chạc , ôm vào sợi giây , Liên lúc đó cũng  quá  căng thẳng, nên Liên chỉ sỏ  một chân , rồi ôm cứng lấy sợi giây, Liên cũng đã được đưa lên tàu , Hai PHĐ bay trở về B.15 , được Liên thuật lại  ( Lúc vào trong mây chi thấy núi và cây , Anh Cung chỉ vừa bay vừa Hover lết theo ngọn cây mà bay , sau đó Anh bị quẹt vào cây , và máy bay cứ lao thẳng tới , va vào những nhánh cây lớn và rơi thẳng xuống ) , Liên chỉ đeo cái Headset mà không đội nón bay, thật là may mắn Liên không bị thương chỉ sây sát sơ sơ trên đầu ,Anh ta dùng băng cá nhân màu nâu quấn ngang đầu,  ( lúc rơi xuống Anh Cung còn tỉnh táo , leo ra khỏi máy bay , và Liên dìu Anh Cung ra xa khỏi nơi  tai nạn , Anh mệt quá vá yêu cầu Liên , cho Anh ngồi nghỉ dưới một gốc cây , sau đó Anh nói Liên móc  trong túi Anh , lấy ra cái bóp và cái hộp quẹt Zippo , Anh nói Liên đem về cho vợ con Anh , Anh Cung nói là Anh bị tức ngực , một lát sau Anh Cung nẩy người lên , rút hai chân , hai tay cũng co lại trong tư thế  ngồi bay, rồi trút hơi thở cuối cùng , Đ/U  ĐẶNG  VĂN  CUNG  đã Hy Sinh ngày 11/ 05 / 1970 . Trước khi Anh vĩnh viễn  lìa bỏ Gia Đình và Đồng Đội anh đã tức chính bản thân mình Tại sao không control được lại để cho rơi và Anh đã nấc lên co vào tư thế bay để rồi  lịm đi ….. Trong lúc đó  Liên thấy bất lực trước cái chết của vị Chỉ Huy  mình , Liên  bỏ chạy xuống triền núi … và cứ thế Anh ta chay theo  dốc núi  ,càng chạy cây cối càng rậm rạp ,nghe tiếng máy bay , mà không có cách nào ám hiệu cho may bay thấy cả , vì cây cao và tàng cây che kín , sau cùng Anh ta xuống đến gần cuối chân núi , mới có một khỏng trống , cũng may vừa chạy đến đó vừa đói lại vừa lả ,  thì máy bay Anh Tưởng kịp phát hiện và đã đưa Liên về.
     Tiếp tục Anh Tưởng , Anh Long  cùng máy bay quan sát từ Pleiku, đua nhau đi tìm chiếc Anh Vượng , dồng thời Anh Tưởng yêu cầu cho thả Team xuống , để đưa xác Anh Cung và Th/U Đạt về . Khi thả Team cây quá cao , hoist và thang giây  không thể xuống tới nơi  được , phải cho Team tuột  giây Thụy Sỉ , khi Team  vào đến nơi bị tai nạn , thì không thể nào lấy được xác  của Th/U Đạt , vì  Transmission đả đè lên Th/U Đạt ,  chỉ còn thấy có nửa mặt  phải ,   sáng hôm sau trưc thăng  đã câu được Anh Cung về , cũng vẫn còn tư thế ngồi bay , mọi người vẫn tưởng Anh chết trên máy bay, lập tức xác Anh Cung  được đưa vào trại tắm rửa, và nắn lại tư thế nằm ngủ , Anh đã cài saferty bell nhưng quên cài Harness và  bị Syclic Stick , đập vào ngực và mặt , làm mặt Anh sưng lên và ngực bầm tím, sau đó  thi hài Anh Cung được đưa về Đà Nẵng, gởi tại Bêng Vien Duy Tân một ngày,  đêm đó Anh Ngọ và một Copil trực xác Anh Cung đến sáng mới dem về  Tân Sơn Nhất , để ngăn lạnh ở Tử Sĩ Đường ,  gần  cổng trại Hoàng Hoa Thám của Doanh Trại Nhẩy Dù ,  Chờ Thân nhân đến nhận . Nói về Th/U Đạt sau đó  Anh Tưởng liên lạc với trực thăng  CH53 của Quân Đội Hoa Kỳ , đến  thả giây  xuông  móc vào Main Rotor,  kéo  Transmission lên để Team lôi xác Th/U Đạt ra ,thi hài Th/u Đạt đã được mang về , tuy vậy vì Anh đã bị vùi xuống đất và nửa mặt phải  ở phía trên , nên nửa phần mặt nổi lên trên  bị tím đen.
     Cuộc tìm kiếm vẫn còn tiếp diễn , PĐ 219 cho thêm TT lên tăng  cường tìm kiếm , đến ngày thứ ba , Phi Cơ quan sát đã tìm gặp xác máy bay CH.34 ở phía Tây Bắc, của nơi Anh Cung bị rơi , cách nơi Anh Cung khỏang  mười mấy cây số , một thung lũng cây thưa thớt  , Máy bay đã bị cháy thành tro , trên cao nhìn xuống như ai đã vẽ lại chiếc may bay của Anh Vượng . Với nơi trống trải này thì rõ ràng Anh Vượng đã bị  Vertigo rồi  , Thả Team xuống chỉ còn hốt tro ba người , chia đều ra ba túi ( Tôi có chụp hình lại ba hài cốt này ) là Anh Đ/U NGÔ VIẾT VƯỢNG Tr/U SQ.ĐL  LÊ VĂN SANG Th/S PHẠM VĂN TRUẬT. . Anh Truật là người có tín ngưỡng rất cao , Anh theo đạo Công giáo,  mỗi lần khi đi xe ngang qua nhà thờ , Anh đều xuống xe dẫn bộ , mỗi khi đi bay trông thấy một chiếc TT câu một chiếc khác , Anh đều làm dấu cầu nguyện ơn trên , Phù hộ cho những người bị nạn tai qua nạn khỏi . Bây giờ ngày 11 / 05 / 1970  các Anh đã ra đi , chúng Tôi toàn thể Anh Em  PĐ 219 Đồng Đội của các Anh  , luôn luôn mặc niệm và tưởng  nhớ đến các Anh  cùng cung kính cầu nguyện cho các Anh sớm về cõi Vĩnh Hằng .
           Sau khi thi hài của Ba Anh được đem về ĐNG , Phi Đoàn phân công chia nhau đưa các Anh về với thân  nhân  Gia Đinh , Tôi và một số Sĩ Quan trong Phi Đoàn , được  phân công  đi theo Anh Lộc , đưa thi Hài Anh Phạm Văn Truật  về với gia đình , Anh ở Giáo Sứ BÙI MÔN  gần TT.HL Quang Trung , Khi Quan Tài Anh được đặt đúng chỗ trong nhà theo yêu cầu của Gia Đình Anh . Anh Lộc cho làm lễ truy điệu , Mặc niệm trước Linh Cửu Anh Phạm Văn Truật , Khi Anh Lộc Hô to một phút mặc niệm bắt dầu Tôi thấy người nhà bưng một cái rổ to tướng từ ngoài cửa đi vào trong nhà ,  trong rổ là hai chú chó to lớn ,  đã được thui sẵn vàng rụm và bóng lưỡng ,  lúc đó không biết tôi có tinh thần hay tấm lòng hoài niệm trước linh cửu hay không , nhưng thật lòng mà nói , Tôi cố bấm bùng nhịn cười , chua bao giờ Tôi thấy cảnh này,Tôi nghĩ Anh Lộc cùng các Anh Em khác cũng vậy . Nhưng tới ngày nay mỗi năm vào ngày một Tết  , Tôi đều đến viếng mộ Anh Truật ,Trên Mộ ghi là Phạm Văn Thành. Còn về Thi Hài Anh Vượng ,Tôi được nghe nói  đến ngày đưa  đám Anh,  có 4 chiếc CH.34 bay lượn trên bầu trời Huế,  tiễn đưa Anh Ngô Viết Vượng đi về nơi an nghỉ cuối cùng . Còn Anh Sang có Anh Ngọ và một số Anh Em khác đưa Anh Sang về Saigon  với thân nhân.
      Ngày 03 tháng 07 năm 1970  ( Tai nạn PHĐ  NGỌ LỄ MẪN ) Phi hành đoàn chúng tôi bay từ ĐNG đi Kontum,  xuống Đắc Tô ,khi máy bay tiến gần Phi đạo thì phát nổ một tiếng lớn ( BÙM ) ở phía trước động cơ  , Anh Ngọ cố gắng đáp ,đưa máy bay vô đến Parking  , mở  carbo máy ra  phát hiện  bị sút cánh bướm nơi Carburetor Air Duct , thật là may mắn , nếu  trên   đường đi mà bị sút thì Ba thầy trò  chúng tôi  đã xanh cỏ  rồi . Sau này được biết là có một số phần tử phá hoại trà trộn trong đám kỹ thuật  , tháo lỏng một số cơ phận của máy bay , An Ninh sư đoàn đã  phát hiện ,theo dõi bắt được những tên phá hoại này.
          Ngày 17 tháng 09 năm 1970 (Tai nạn của PHĐ AN LỘC NỮU )  CÂU CHUYỆN NÀY ĐỢI ANH AN KỂ LẠI  ĐOẠN ĐẦU ….
     Sau khi máy bay phát hỏa , từ độ cao Anh Nguyễn Quý  An  cố gắng  descends xuống , máy bay  xuống càng nhanh ,gió lại đẩy  lửa cuốn vào Carbin càng mạnh , Anh An cố gắng chịu đựng để control cho máy bay xuống an toàn , trong khi đó Mevo Đặng Văn Nữu , bị lửa cuốn vào carbin qúa nhiều , Anh không thể chịu nổi , đã leo ra ngoài bánh  đáp ,khi máy bay chạm mạnh xuống đất Anh đã bị văng ra ngoài , Trong lúc đó Anh An từ Cockpit  , với  tay vào tay vịn  bên ngoài cockpit để leo xuống , vừa nghiêng người , Anh đã bị ngã ngay xuông đất, Anh cho biết khi tôi  vịn tay để leo xuống , tôi thấy mình rơi ngay , nhưng cảm tưởng tay mình vẫn còn vịn phía trên máy bay, lúc  Anh An đáp khẩn cấp , Anh Nguyễn Thanh   Giang lập tức kè theo anh An , khi Anh An và Nữu đã xuống đất Anh Giang đã ở kế bên , Mevo Lại Công Chính trên chiếc Anh Giang , vội nhẩy ngay xuống khỏi máy bay, tức tốc bế Anh An lên máy bay  mình , Nữu cũng chạy theo, trong lúc khẩn cấp không ai kịp trông thấy Copil Nguyễn Hải Lộc  , khi tới đất không biết Th/u Nguyễn hải Lộc nhẩy xuống ,chạy về hướng nào. Anh Giang nhìn bao quát chung quanh , cũng không thể chờ đợi lâu được , vội  vã cất cánh đưa Anh An và Nữu đi cấp cứu , để cho Anh Phước (đạo dừa) Leader  tìm kiếm , Anh Phước bay nhiều vòng cũng không thấy tín hiệu gì của  Nguyễn Hải Lộc , sau đó Anh Phước liên lạc với Quảng Lợi , xin thả Team vào tìm kiếm , nhưng Team lùng sục khắp khu vực suốt một ngày trời , vẫn không tìm ra dấu tích của anh Nguyễn Hải Lộc , cuối cùng Phi Đoàn đánh phải báo cáo Mất tích . Anh An vì bị  phỏng nặng nên bất tỉnh mê man , chính vì điều này Bệnh viện dã chiến Hoa Kỳ có cơ hội chỉnh hình , bào lớp thịt chín trên mặt , cấy da mới lên mặt cho Anh, họ bào da ngực , da đùi đắp lên mặt cho anh An ,vì vậy ngày nay trên mặt Anh An không bị sẹo vẫn đẹp trai như xưa, nhưng anh cũng phải mất đi một phần trên đôi cánh tay, vì phải cố gắng control cho may bay xuống đất, nên đã bị chín hai bàn tay.  Mevo Nữu vì còn tỉnh táo nên không thể giải phẫu trên mặt được , chính vì vậy Nữu phải mang vết sẹo trên mặt. Sau khi Phi Đoàn bàn bạc,  đã cử Anh Nguyễn Hữu lộc cùng một số Anh Em ra Huế , đến gia đình Anh Nguyễn Hải Lộc báo tin mất tích. Gia đình Anh Nguyễn Hải Lộc là một căn nhà ngói nhỏ, nhưng  được thiết kế rất đẹp, bên cạnh đường, qua một mương  nước đào dọc theo đường để dẫn thủy nhập điền , chung quanh nhà trồng rất nhiều cây an trái , cây cảnh, Khi chúng tôi vào nhà , được thân sinh của Anh Nguyễn Hải Lộc ra đón một cách rất lịch sự và  thân mật, Anh Nguyễn Hữu Lộc  thông báo tình trạng về tai nạn của Anh Nguyễn Hải Lộc ,Ong tỏ ra rất thản nhiên , trả lời một cách  rất tự tin , Tôi biết con tôi hiện nay chưa chết, có thể nó đang ở một nơi nào đó , mà các Anh chưa tìm ra Ong cho biết ông là một thầy tướng số rất khoa học, Ong đã từng xem tử vi cho gia đình Tổng Thống  Ngô Đình Diệm, Ong tin tưởng vào số của con ông hiện nay chưa chết . Lúc đó có lẽ Anh Nguyễn Hữu Lộc , chắc phải lúng túng , nhưng công văn cầm nơi tay , Anh vẫn phải làm tròn trách nhiệm , nói  đưa đẩy cho gia đình yên lòng.
     Sự việc tưởng như  êm xuôi nhưng ba tháng sau, một trực thăng từ Không Đoàn 23 Biên Hòa , tình cờ đi săn bắn , gần khu vực nơi Anh An đáp máy bay, họ phát hiện một xác chết mặc đồ bay, gần nơi máy bay bị cháy , thi hài anh Nguyễn Hải Lộc  đã được mang về , trong mình Anh còn quyển nhật ký , viết được 7 ngày trước khi kiệt sức , trong đó Anh kể lại khi xuống tới đất , Anh vội nhẩy  ra ,vì quá nóng và bị phỏng , nên Anh theo quáng tính mà chạy,không kịp thấy máy bay của Anh Giang  đáp ,Anh vội lao ngay vào trong rừng , khi thấy kịp thì Anh Giang đã bay lên, Anh sợ quá trốn vào trong bụi , khi thấy máy bay lùng tìm , lúc đó Anh bò ra không nổi , khi Team xuống lục lọi , Anh lại tưởng địch quân , nên không dám lộ diện , vì bị phỏng nặng kèm theo bị kiệt sức , Anh cố gắng cầm cự được gần 7 ngày , cố  lết  ra chỗ  máy bay rồi chết gấn đó. Thi hái Anh sau khi được đem về Đơn Vị , đưa ra Huế cho thân nhân , Anh Nguyễn Hữu Lộc đứng trước quan tài đọc điếu văn , làm lễ truy điệu cho Anh Nguyễn Hải Lộc song , Anh trao lại cho Ong Thân sinh Anh Nguyễn Hải Lộc,  lá cờ Tổ Quốc đã phủ trên quan tài. Ong cụ Thân sinh cũng rất bình thản  nhận lá cờ  , cầm nơi tay , dõng dạc nói  một cách lưu loát Gia đình chúng tôi rất  hân hạnh ,  nhận lá cờ  Tổ Quốc,  mà đơn vị đã giao lại cho chúng tôi , Gia đình chúng tôi cũng rất hãnh diện , trong gia đình có một người con hy sinh cho Tổ Quốc ,  gia đình  xin cám ơn toàn thể Bạn hữu , chiến hữu của Lộc  , đã tiễn đưa Em về nơi an nghỉ cuối cùng . Tôi thật cảm kích trước  sự cứng rắn đầy tình cảm của ông .
     Ngày 26 tháng 11 năm 1970   ( Tai nạn của PHĐ  NGỌ KHÁNH HƯNG )  Sáng  hôm đó Biệt Đội 219 tại B.15 như  thường lệ  bay thẳng lên Đức Cơ trực , làm việc tại  đó 5 chiếc TT của PĐ 219  do Đ/U Phước ( Đạo dừa ) Leader  , chiếc thứ nhi là Anh Nguyễn Tấn Hiền , chiếc thứ ba là Anh Long (đen) và hai chiếc nữa không nhớ tên sửa soạn cất cánh , Đ/U Hiền bị chột bụng , vì vậy Anh  Vương Văn Ngọ hôm đó  được nghỉ ra bay thế , Copil vá Mevo vẫn giữ nguyên , khi  5 PHĐ bay lên đến Đức Cơ , lật tức Anh Phước và các trưởng Phi Cơ vào nghe Briefing ngay, sau đó nhận lệnh đi đón một  Trung đội Biệt Kích  ( chắc hẳn không ai quên được Tiểu Đội có 11 Troops , Trung Đội gấp 3 tiểu đội , Đại đôi gấp 3 trung đội như vậy là đón hơn 30 Troops. ) về  hướng Tây của Đức Cơ  khoảng 30 phút bay , nơi đây là mật khu 701 .
     Chiếc  Kingbee lead thứ nhất xuống  vừa đón 6 troops cất cánh lean,  chiếc thứ hai Anh Ngọ vội vàng  thế chỗ , khi Anh Ngọ còn đang Hovering cách mặt đất khoảng 10 feet bị một  tràng  AK.47 của Địch quân , Anh Ngọ bị trúng ngay giữa lòng bàn chân trái , chân Anh lúc bấy giờ nghe như tê  rần , không thể Control được nữa , Anh báo cáo lên cho Anh Phước , Lập tức chiếc thứ Ba Anh Long (đen) vội vàng kè xuống ngay kế bên ,đón PHĐ Anh Ngọ về ngay lập tức , Anh Long đưa Anh Ngọ về Pleiku , sau khi băng bó , đưa thẳng Anh Ngọ về Bệnh viện dã chiến Kon Tum , Những PHĐ còn lại vẫn tiếp tục hoàn thành Mission được giao phó . và phá hủy Máy bay bỏ lại tại LZ .
     Anh Ngọ về điều trị tại KonTum cùng nằm chung với  Đ/u Quý Pđ 219 bị thương  nơi bụng . Lại nói về việc Đ/U Phạm Văn Quý , Tại biệt Đội Kontum hôm đó  Th/u Nguyễn Văn Vang lên Club chơi về tới phòng , có vẻ như lớn tiếng bị Anh Quý chỉnh , Anh Vang móc súng ra doạ , Anh Quý nghĩ là không dám , nên lón tiến nói lại Anh Vang ,  thế là cơn  nóng nổi lên,  Anh Vang không tự chủ được bắn luôn  6 phát vào  bụng  Anh Quý , Anh Vang bị nhốt tại Quân Cảnh Tư Pháp Tỉnh Kon Tum, Với đức tính nhân hậu của anh Quý , khi đã thật sự qua khỏi cơn nguy hiểm , sau cuộc phẫu thuật, gắp đạn ra ( vì bao tử Anh không tiêu hóa được đạn )  Anh đã vội vàng làm đơn bãi nại cho Anh Vang , và cũng từ dạo đó Anh Vang vẫn còn mang thiếu uý  trong khi bạn bè đồng khóa đã lên Đại uý ,  không biết sau này Anh Vang có hối hận  , nhớ mãi  chuyện này không…
     Khoảng gần cuối năm 1970 Anh Nguyễn Văn Nghĩa trở về Phi Đoàn 219 nắm chức vụ Phi Đoàn Trưởng thay thế Ong Đặng Văn Phước , lên làm Không Đoàn Trưởng Tân Lập Không Đoàn 51 Tác Chiến thuộc Sư Đoàn I không Quân.
     Ngày 16 tháng 12 năm 1970Anh LÊ HỮU KHIÊM  bị mảnh bom pháo kích của địch quân  ở Quảng Lợi , bị thương nơi  đầu gối  và được giải ngũ ( câu chuyện này Tôi  không nắm được chi tiết ).
     Đầu Năm 1971  Anh Tống Phước Hảo hết nhiệm kỳ  Sĩ Quan Liên lạc ở Hoa Kỳ , Anh Trở về Phi Đoàn 219 , nắm chức vụ Phi Đoàn Phó PĐ 219 cùng giúp Anh Nghĩa điều hành Phi Đoàn.
    Tháng 02 năm 1971 ( tai nạn  của hai PHĐ  GIANG ON SƠN & BỬU KHÁNH EM  Tại đồi 31  trong mặt trận Lam Sơn 719 ).
     Đối  với mặt trận này , hầu như tất cả những thanh niên thời đó , ai cũng đều biết không ít thì nhiều về cuộc  chiến  mặt trận  LAM SƠN  719. Và sự hiểu biết của mỗi người , đều khác nhau , vì  đều nghe truyền miệng , và sự  thêu dệt của những người tự cho là hiểu biết rộng , cộng với sự phóng đại những tin hành lang , của những chàng nhà báo làm cho tin tức nóng hổi và giật gân mà thôi . Thật ra có mấy ai biết nhiều về cuộc chiến trên mặt trận đó , nguyên nhân sảy  ra  như  thế nào , tại sao lại say ra vào thời  điểm đó … Việc  này   có lẽ đợi Lịch sử phán quyết . Còn ngay như chúng Tôi , những người đã từng tham chiến , cũng chỉ được biết cuộc chiến ở những khu vực ,trực tiếp chúng Tôi tham dự , mục kích thấy trước mắt ,  hoặc tình cờ  nghe trong vô tuyến , những gì sảy  ra ngay trong lúc đó mà thôi .
     Sau đây Tôi xin kể lại vài kỷ niệm chính Tôi,  đã gặp phải trong mặt trận này . Mặt trận LAM SƠN 719  Những đơn vị tham chiến gồm nhiều Binh Chủng  Hải Lục Không Quân và Lực Lượng Đặc biệt , Nhưng nổi trội lúc bấy giờ là hai Binh Chủng  thiện chiến của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa  là NHẨY DÙ & THỦY QUÂN LỤC CHIẾN . Hai binh chủng này có truyền thống là kỷ luật tác chiến cao, dũng mãnh trong chiến đấu , Hầu như những người Lính từ cấp bậc Trung Sĩ trở lên , đa số là người Nùng và người Bắc Việt , Họ có kinh nghiệm chỉ huy tác chiến và rất kỷ luật , từ  những truyền thống , những cái nếp đó , tầng lớp đàn Em cứ thế tiếp bước noi theo. Tuy vây cũng  có  một số ít đơn vị , vì nhu cầu chiến tranh , và vì thiếu hụt quân số , đã bổ sung không kén chọn những chỉ huy trẻ thiếu kinh nghiệm , nên đã gây ra những tác hại vô kỷ luật trong tác chiến , làm ảnh hưởng tư tưởng chiến đấu đến những đồng đội khác , nhưng cũng chỉ là số ít mà thôi .
     Một ngày nọ Tôi bay với Anh Thạnh và Anh Yên lên tải thương trên đồi 28 hoặc 29 gì đó , nói là đồi nhưng đây là một đỉnh núi ,  nằm về hướng đông đông  nam  của đồi 31 . nơi đây cao , nhọn,   chung quanh là vực sâu , không  có đường bộ lên , Anh Thạnh bay một vòng báo hiệu cho Bộ Binh ở dưới  biết máy bay sắp sửa đáp , thì thấy những chàng chiến sĩ  đang ngồi trên miệng hầm , vội tụt xuống  chui vào hết trong hầm . Tôi lấy làm lạ hỏi anh Thạnh sao họ trốn khi thấy máy bay , hay là địch quân đã chiếm  nơi này rồi . Anh Thạnh nói coi chừng nó pháo kích đó , quả  nhiên khi máy bay vừa đáp xuống LZ  thì lập tức địch quân pháo ngay một quả để định hướng , trái pháo rớt vào triền dốc ngay sau đuôi máy bay , vì vậy nó tạt ra ngoài không văng về phía máy bay , trong lúc đó tại miệng hầm trú ần , các thương binh bò về phía máy bay , Tôi thấy có một thương binh vừa được khiêng ra khỏi miệng hầm  thì bị bỏ ngay tại đó , Tôi định nhẩy xuống lôi Anh Ta về may bay , nhưng Anh Thạnh đã la lên Mẫn ơi chú không được nhẩy xuống nghe chưa và như đã có kinh nghiệm , Anh Thạnh vội vàng cất cánh , ngay khi máy bay vừa ra khỏi LZ  , lập tức trái pháo thứ hai rớt ngay tại chỗ máy bay đậu …. Hú hồn… chỉ trong tích tắc , nếu Anh Thạnh không cất cánh ngay , máy bay đã bị trúng pháo nổ tung  ( Những người dày dạn chiến trường dã tích lũy một số vốn kinh nghiệm …chính những kinh nghiệm đó  đã cứu được  bản thân mình , cả những  sinh mạng của đồng  đội mà Anh ta chi huy họ ) . Đúng là địch quân đã bắn định hướng trái đầu . Khi bay trở về dọc theo đường mòn từ  Lao Bảo Tà Bạt Khe Sanh … máy bay oanh tạc thả bom napal dọc theo hai bên đường ,  những cột nấm khói khổng lồ cứ thi nhau bốc lên  , và dưới mặt trận , hôm nay chỗ này địch quân chỗ kia là  quân bạn  và Đồng Minh  cứ vài giờ hay qua một ngày  lại sáo trộn , không biết đâu là bạn đâu là thù.

     Vài ngày sau vào ngày 21 tháng 02 năm 1971 hôm đó PĐ219 có Ba PHĐ biệt phái lên Khe sanh làm việc cho Bộ Chỉ Huy Tiền Phương của Binh Chủng Nhẩy Dù  là :
                HIỀN HOÀN MẪN
                GIANG ON SƠN
                THẬN YÊN  HÙNG
     Tại đây ba trưởng Phi cơ vào làm việc với BCH,  nhận  lệnh vào đồi 31 , khi bay gần đến nơi thì vô tuyến trên máy bay Anh Hiền bị hỏng , không thể liên lạc được , tất cả phải quay  trở về , khi về Khe Sanh  , Anh Hiền  điện về yêu cầu kỹ thuật lên sửa chữa , Anh Giang muốn đi trước , Anh Hiền đồng ý. Anh Giang và anh Thận bay lên , khi bay đến nơi Fantom của Hoa Kỳ yểm trợ  đánh bom chung quanh , nã đạn cối xuống phía dưới , hầu làm phân tán lực lượng chiến đấu của địch quân, vì vậy địch quân không còn thì giờ bắn theo máy bay của Anh Giang , nhưng khi máy bay đáp xuống LZ  máy bay bị ngay một trái pháo , Anh Giang đành phải ở lại đồi 31 chớ Pickup, Trong lúc đó Anh Giang liên lạc lên , không cho Anh Thận xuống , vì bãi đáp đã bị địch quân nắm rõ tọa độ , Anh Thận đành phải quay về , Anh Hiền nhận được tin ,vô BCH liên lạc thẳng đến đồi 31, hỏi tình hình PHĐ của Anh Giang ,  Anh Giang cho biết PHĐ vô sự,   chỉ bị muỗi cắn sơ sơ mà thôi , bãi đáp không thể xuống được , Anh đang yêu cầu BCH Đồi 31 , chuẩn bị  làm một bãi đáp dã chiến khác , không ngay tọa độ của địch quân . Và đêm đó PHĐ Anh Giang đành phải ở lại trên đồi .Đến  chiều  chúng Tôi bay trở về Thạch Hãn , Anh Thận  đưa kỹ thuật trở về Đà nẵng , qua sáng ngày hôm sau ,  chờ mãi cũng không thấy Anh Thận  và PHĐ tăng cường  đâu cả , Anh Hiền bay lên Khe Sanh trước , nơi đây trong khi chờ đợi BCH tiền phương yêu cầu Anh Hiền đi tải thương ,  những khu vực quanh đó , cho đến chiều ( Về  thời gian này thì Tôi quên mất và theo lời kể lại của Anh Bùi tá Khánh thì Hai PHĐ tới chiều mới ra tới nơi , không hiểu tại sao mà tới chiều mới ra đến khe sanh . Nếu Anh Hiền nhớ , xin bổ sung cho mạch lạc ).
      Buổi sáng  ngày 22 tháng 02 năm 1971 ,Khi Anh Hiền đi tải thương về , Hai PHĐ tăng cường đã vào Đồi 31, Anh liên  lạc vô tuyến ,vội vã bay theo ngay , khi bay gần đến nơi , Anh Bửu đã đáp xuống , đã bị phòng không địch quân bắn  cháy  , trong lúc đó  hai chiếc gunship của PĐ 233 do Tr/u Thục  leader  đang dánh phá chung quanh LZ , Fantom của  HK, cũng  đua nhau nhả đạn xuống những nơi được báo là có địch quân,  Anh Hiền cũng vừa đến nơi , lúc đó Anh Thận bay chung với anh Yên và Mevo Phạm Xuân Hùng , Anh Thận muốn xuống đáp cứu hai PHĐ ở dưới nhưng fantom của Hoa Kỳ yêu cầu anh Thận quay trở về,  vì họ và hai Gunship không còn đủ đạn dược để yểm trợ nữa , theo yêu cầu ở tại BCH Đồi 31 Đại tá Thọ cũng không muốn tổn thất thêm máy bay,  nên Ong cũng yêu cầu Hai PHĐ quay trở về , Anh Phan văn  Thận lúc bấy giờ rất ấm ức , vì không có cách nào xuống cứu đồng đội cả , Anh Thận rất tức tối , và vì quá  căng thẳng , không ngờ khi về đến Khe Sanh chứa  kịp đáp xuống , Anh đã ngất ngay trên máy bay,  khi còn Hover trên hàng rào , may mà Anh Yên  đã tiên đoán trước , nhưng Anh  Yên  vẫn lúng túng đáp ngay trên hàng rào phía bên trong , Anh Hiền phải lên bay đem ra , bấy giờ mới biết Anh Thận có máu hay bị ngất …. Sau  chính vì bệnh này Anh Thận không còn  bay nữa , mặc dù bị bệnh như vậy nhưng Anh Phan Văn Thận đã chứng tỏ một tinh thần đồng đội thật tuyệt vời .
     Sau khi đáp xuống Khe Sanh , Anh Hiền vào thẳng BCH tiền Phương , yêu cầu xin liên lạc với đồi 31 để được nắm rõ tình hình về Hai PHĐ ,được biết Hai PHĐ vô sự Anh Nguyễn Thanh Giang nhắc lại là  cứ yên tâm đừng vô nữa khi nào tình hình lắng dịu hãy vào ( Lúc này PĐ 219  tổn thấn 2  chiếc Phi cơ H.34 )
     Qua ngày hôm sau Hiền Hoàn Mẫn lại tiếp tục lên Khe Sanh,  cùng với hai PHĐ khác lên tăng cường mà Tôi đã quên mất tên  . Tất cả đều biệt phái nhiều ngày , nghỉ tại một căn cứ gần Sông Thạch Hãn , cũng như  những ngày trước Anh Hiền liên lạc với anh Giang , anh Giang vẫn không cho lên . Và cho đến sáng ngày 25 tháng 02 năm 1971  Tôi còn nhớ  Anh Hiền Anh Hoàn và Tôi vào phòng Chỉ Huy , nghe trong vô tuyến  báo cáo diến tiến cuộc chiến tại Đối 31  Một chiếc xe tăng lên …Cháy …Chiếc thứ hai …Lên… Cháy … Chiếc thứ ba lên…quay đầu chạy lui … chiếc thứ tư lên…cháy …  Địch quân tràn lên tấn công Rồi im lặng hoàn toàn mất khoảng 20 phút thì Tôi nghe trong vô tuyến một giọng nói bằng tiếng gió nghe  như  khào khào  Địch quân tràn ngập phòng chi huy , và bây giờ chúng tôi liên lạc bằng một máy nhỏ … Tất cả các hầm đều bị chiếm giữ … Báo cáo Đồi 31 đã bị thất thủ … Trong khi đó Tướng Hoàng Xuân Lãm  Tư lệnh vùng I  Chiến Thuật  bước vô Ong cầm trên tay một cây can nhỏ , Ong đến gần một Đại tá  nhẩy Dù , mập mạp đầu hói , cây can trên tay Ông gõ vào đầu Viên Đại tá Ngu…Ngu…Ngu… Anh Hiền, Hoàn và Tôi thấy mình  thật trơ trẽn , từ từ rút êm ra ngoài , và Từ lúc đó Phi Đoàn 219 lại mất thêm Hai Phi Hành Đoàn không rõ tin tức . Câu chuyện về Hai Phi Hành Đoàn rớt tại Đồi 31 được Anh BÙI TÁ KHÁNH   Kể lại như sau:

  CHUYẾN BAY VÀO ĐỒI 31
     Khi hai  PHĐ chúng Tôi  Bửu Khánh Em  & Thận Yên Hùng  ra đến Khe Sanh  thì trời đã xế chiều rồi , nhưng vì nóng lòng muốn vào cứu đồng đội  ra  liền , nên chúng Tôi quyết định vô ngay Đồi 31  chứ không thể đợi đến mai được . Trong khi các Anh Bửu & Thận vào briefing với Bộ Chi Huy Tiền Phương  SĐ Dù  thì Tôi là Copilot và mêvô Em làm tiền phi , check lại máy bay . Xăng vẫn còn đầy bình trước , dư sức cho phi vụ cuối ngày, không cần phải refuel .Còn PHĐ thứ 2 Tôi nhớ trưởng Phi cơ là anh Yên (Anh lầm rồi Mẫn nhớ rất rõ lúc đó Anh Yên còn là Copil )
     Xong briefing , Anh Bửu ra cho anh Em biết, chuyến vào chúng ta sẽ chở thêm tiểu đội tác chiến  điện tử Dù  cùng 18 chiếc máy   sensor để tăng phái cho căn cứ 31  Dù  dùng để phát giác đặc công  địch , chuyến ra sẽ rước PHĐ Anh Giang về . Trước khi vào thì Pháo Binh Dù sẽ bắn dọn đường  dập vào nhửng địa điểm được ghi nhận  có phòng không địch  và tình hình lúc này rất gay cấn , địch tập trung lên đến cấp Tiểu Đoàn  phòng không gồm đủ loại  37mm, 12 ly 7  lại còn nghe có cả SA.7 nữa . Gunship có được hai chiếc  của PĐ 233 do Tr/U Thục  bay trước mở đường
     Ngày hôm qua , khi vào vùng , Anh Giang đã dùng chiến thuật  Lá vàng rơi , từ trên cao cúp máy  auto xoáy trôn ốc xuống , nhung vì phòng không địch quá  dày  nên gần đến đất , PC Anh trúng đạn  gãy đuôi  nằm bên cạnh  vòng rào phòng thủ  Lữ Đoàn 3 Dù . PHĐ vô sự , Copilot ON  chỉ bị sây sát nhẹ  ở cổ , tất cả thoát được vào trong căn cứ Dù , trước khi bỏ PC , Sơn không quên vác theo cả M60 trên cửa máy bay nữa . Rút kinh nghiệm , hôm nay Anh Bửu bay Rase Motte sát ngọn cây  lấy hướng Đông Tây  đi vào , gần đến LZ  sẽ chếch Đông Nam Tây Bắc  mà đáp xuống . Vừa ló ra khỏi rặng cây , tôi thấy chiếc Gunship của Tr/U Thục  bay vòng lại , trong máy anh la lên  Bửu  coi chừng phòng không ở hướng Tây . Từ trên PC nhìn xuống , giữa màu xanh trùng điệp  của rừng cây nhiệt đới , ngọn đồi 31 đỏ quạch  nổi bật với những bụi đất  tung lên  từng cơn  vì pháo kích quấy phá của Bắc Quân . Tuy nhiên vì nhiệm vụ , Anh Bửu vẫn điềm tĩnh tiếp tục đáp . Khi PC còn cách mặt đất  độ 15 thước thì trúng một tràng đạn phòng không , PC phát hỏa , một đám khói bùng lên bao trùm cả PC , trong máy Mevo Nguyễn Văn Em la lên  khẩn cấp  Đáp xuống , đáp xuống Anh Bửu ơi, máy bay cháy.Anh Bửu cũng la lên Yên ơi tao bị trúng đạn rồi đừng xuống nữa trong khi vẫn bình tĩnh đáp xuống. May mắn là đạn trúng vào bình xăng phụ  đã hết xăng , chỉ còn ít hơi đốt , nên PC không bắt cháy như PC Anh An  ở Bù Đốp  hôm nào. PC chạm đất , Tôi cùng Anh Bửu nhanh Tay tắt gió , xăng , điện  rồi nhẩy ra khỏi PC . Mọi người chạy ngược lên đồi  về phía hàng rào phòng thủ  thứ nhất của Đại Đội công Vụ Dù  cách khoảng 100 thước . Tôi còn tiếc  chiếc xách tay quần áo  nên phóng vào PC để lấy . Một cảnh thương tâm hiện ra  trước mắt , một chiến binh Dù bị trúng đạn  ngay giữa trán , nằm ngửa chết ngay trên ghế , trên sàn tàu , đống máy sensor vẫn còn nguyên vẹn . Tôi chỉ kịp vớ lấy cái  xách tay  rồi phóng chạy lên đồi  theo những tiếng kêu gọi của Binh Sĩ Dù  Trên đâu nè Thiếu Uy tụi  Em bắn yểm trợ cho , Lên đến nơi Tôi thở nhu Bò rống .Không Quân  mà hành quân dưới đất  thì phải biết là mệt đến đâu , Tôi nhớ mãi hôm đó là ngày  22 tháng 02 năm 1971.
     Vừa ngồi nghỉ mệt , Tôi vừa nhìn xuống bãi tải thương  nơi con tàu đang đậu hiền lành , cũng vừa lúc địch điều chỉnh tác xạ , đạn súng cối trúng ngay tàu nổ tung , bốc cháy khói đen mù mịt  cả một góc trời . Tôi nhìn con tàu xụm xuống , lòng quặn lên . Con tàu thân thương đó đã gần gũi lâu nay , giờ thành một đống sắt vụn .
     Sau đó , theo chỉ dẫn của Anh Em Dù , chúng Tôi men theo giao thông hào  lần về đến BCH  Lữ Đoàn 3  Dù . Gặp lại PHĐ Anh Giang , ON, Sơn  anh Em chúng Tôi mừng rỡ thăm hỏi rối rít . Đại Tá Thọ  mừng Anh Em  mới đến mỗi người một điếu Havatampa và một chung Hennessy  để lấy lại tinh thần . Hai hôm sau , vẫn không có được chuyến bay nào vào  vì địch quyết chiếm đồi 31  nên tăng cường bao vây chặt  và luôn di động dàn phòng không  khiến KQVN và Hoa Kỳ  không phát huy được ưu thế  của KQ . Mỗi sáng độ hai phi tuần F4  đế`n ném bom  vài khu vực khả nghi  chung quanh đồi 31  và thỉnh thoảng  mới có một đợt B52  rải thảm ì  ầm  xa xa  vọng đến  rồi mọi sự lại chìm vào rừng núi trùng điệp . Ngược  lại , Bắc quân tập trung bao vây , tăng cường pháo kích  suốt ngày  nhằm quấy rối  và làm tiêu hao lực lượng Dù . Sáng ngày 25 tháng 02 năm 1971 , chúng Tôi được lệnh di chuyển ra  các hầm cứu thương  sát bãi đáp  chờ đến trưa PĐ sẽ đưa 3 PC  vào tải thương  binh Dù  đồng  thời bốc Hai PHĐ ra . Đến trưa  khi chúng Tôi nghe tiếng máy PC nổ xa xa  thì cũng là lúc địch khởi đầu  tiền pháo  dồn dập lên đồi 31 . Từ trong hầm cứu thương nhìn qua bên kia đồi đối diện , cách nhau một cái yên ngựa , tôi thấy rõ hai chiếc xe tăng  T-54  của Bắc quân  tiến lên xếp hàng ngang , cùng với quân tùng thiết  dầy đặc chung quanh  nhắm đỉnh đồi chúng Tôi mà nhả đạn . Những tia lửa từ nòng súng phụt ra , chúng tôi chúi đầu xuống . Trời kêu ai nấy dạ !. Đủ thứ đạn nổ phía trên hầm của chúng tôi , chắc là nhắm vào BCH LĐ3 Dù . Sau vài loạt đạn , một phi tuần hai chiếc F4  xuất hiện nhào xuống  oanh tạc vào đội hình  địch , bắn cháy cả hai xe tăng . Chúng tôi vui sướng reo mừng  trong hầm bên này . Không ngờ , chỉ một lúc sau  hai xe tăng khác  ở phía sau tiến tới  ủi hai chiếc xe  cháy  xuống triền đồi , rồi lại hướng súng đại bác  về đồi chúng tôi  mà bắn !  trong tiếng bom đạn tơi bời , Tôi vẫn nghe văng vẳng tiếng máy nổ quen thuộc  của những chiếc H.34 đang vần vũ  trên kia  như lo lắng cho số phận  những đồng đội của mình .
     Quân Dù chống trả mãnh liệt  cho đến khoảng 5 giờ chiều  thì địch  tràn lên chiếm đồi . Họ đi từng hầm trú ẩn  kêu gọi binh sĩ Dù  đầu hàng . Biết không thể làm gì hơn , Tôi và anh Bửu tháo bỏ súng đạn cá nhân, chui ra khỏi hầm .
     Về phía KQ , Tôi, Anh Bửu, On và Sơn  bị trói bằng giây điện thoại  và bị dẫn giải ra Bắc việt  chung với tất  cả các Tù binh khác . Không thấy anh Giang và Nguyễn Văn Em đâu . Chúng Tôi bắt đầu thăm hỏi  các Sĩ Quan và binh sĩ Dù  trên đường đi . cuối cùng Tôi gặp được Anh LONG  Thiếu úy phụ tá Ban 2  của LĐ 3 dù , người ở chung trong hầm với anh Giang . Khi Bắc Quân kêu các anh ra đầu hàng thì các anh không chịu ra  nên chúng thẩy lựu đạn  và bắn xối xả vào hầm . Anh giang bị thương nặng gẫy cả hai chân , Anh LONG chỉ bị thương nhẹ  nên chúng bắt theo , còn Anh Giang không đi được  nên bị bỏ lại  và chết ở trong hầm . Về phần Mevo nguyễn văn Em  thì bị lạc đạn  trúng bụng đổ ruột ra ngoài , bị bắt mà không được băng bó vết thương  nên đi được một khoảng thì  gục chết ở bên đường .
     Thế là PĐ 219  ghi thêm vào Quân Sử  của mình  một thiệt hại  2 PHĐ  trong chiến trường Hạ Lào . Trong đó Anh Giang và Em  đã vĩnh viễn ở lại  trên đồi. Ngọn đồi quyết tử 31.
     Những người còn lại  của 2 PHĐ là Bửu ,On,Khánh và Sơn thì sa vào tay địch , bị đưa đến những bến bờ vô định, biết còn có ngày về hay không?

                            BÙI TÁ KHÁNH

                        Mẫn thân mến .
     Theo yêu cầu ,Tôi thuật lại chuyện trên  với tất cả chi tiết Tôi còn nhớ được .Mẫn có toàn quyền hiệu đính và sửa chữa theo đúng  với văn phong của mình  để câu chuyện hoà nhập  với tập sách của Mẫn.
     Theo như bài viết của Anh Bùi Tá Khánh , chính xác ngày 25 tháng 02 năm 1971 vào lúc sau 17 giờ  Anh Nguyễn Thanh Giang và Anh Nguyễn Văn Em  đã vĩnh viễn hy sinh một cách Oanh liệt , thật anh Hùng tại Đồi 31. Thân xác các anh đã hoà vào lòng đất trên đồi 31 , chúng Tôi những Đồng Đội những người bạn thâm giao, sẽ mãi mãi ca tụng và thương nhớ  đến các anh ….
          Những ngày sau đó chúng tôi tiếp tục nhận  nhiệm vụ  , tải thương  cho các đơn vị bạn chiến đấu trên mặt trận này, có lần ba thầy trò chúng tôi tải thương cho đơn vị Thủy Quân Lục Chiến , Anh Hoàn dặn tôi chỉ cho thương binh lên thôi, khi vừa đáp xuông , tôi đếm một , hai , ba , bốn , Năm cất cánh …máy bay không thể lên nổi , cứ ỳ ạch lết từ từ trên mặt đất , và cái đuôi nặng chì xuống , tôi nhìn ra sau thật ngạc nhiên, cửa sổ mà họ cũng leo vào được , có lẽ củng đến trên 15 người , khi về kiểm lại , chỉ có  vài ba thương binh loại nặng  còn tất cả , chỉ sây sát sơ thôi, từ đó tôi nhận thấy Thủy Quân Lục chiến nới đó không còn nhuệ khí chiến đấu nữa , Họ người thì ôm tam cấp máy bay , người thì đu bánh đáp , để được về hậu cứ . đối với Tôi họ không còn được so sáng như  binh chủng  Nhẩy Dù nữa , Trên đường về , Tôi chứng khiến thấy một Phi Đội trực thăng của Hoa Ky, gồm 11 chiếc đang xuống đón quân bạn , Họ xuống tuần tự một cách kỷ luật, chiếc đầu bị bắn rớt , nhưng đội hình của họ vẫn không thay đổi , họ vẫn xuống , khi đón được đồng đội họ lập tức bay về , đội hình vẫn giữ nguyên, Tôi không dám chê , nhưng  tôi thấy các phi đội trực thăng Việt Nam , khi bị bắn thì  thì đội hình sáo trộn không biết ai là Leader  nữa  , tôi có hỏi thì họ nói  là tránh đạn vậy thôi, tuy nhiên đối với PĐ 219 thì  khi lâm  trận lối làm việc có khác hơn các đơn vị khác …, họ phải vào từng chiếc một , chộp thời cơ để đáp .
     Có một lần, thầy trò chúng tôi , dược lệnh lên tải những xác chết , đã bị chôn  trên 10 ngày rồi , họ đã bị vùi xuống đất , vì nơi đó tạm yên , lắng dịu ,  lệnh phải  đào lên cho trực thăng  đem về, Đây là một đơn vị  cũa  biệt Động quân, Khi chúng tôi đến nơi , những người Lính  buộc xác chết  vào một nhánh cây , hai người mỗi người một đầu khiêng đến gần máy bay, họ chỉ quăng trước cửa máy bay mà không chịu đưa lên tàu, vì quá thối , thề  là mình tôi kéo lê từng xác chết vào trong tàu, vì bị xình chương lên ,  những xác cứ đè lên nhau , chảy nước vàng , có người dòi bọ bò lúc nhúc , con dòi to bằng đầu đũa , có lông lốm đốm, mình trắng như hột gạo sấy đổ nước chưa kịp ăn, bay được một đoạn ,Tôi chịu không nổi leo ra khỏi máy bay, có một xác chết vì chồng lên  trên,hơi dốc nên từ từ tuột ra chỗ chân tôi đứng , lúc đó tôi sợ Anh ta rơi ra khỏi máy bay , nên lấy  hai chân kẹp đầu anh ta lại, máu ?… không phải , nước vàng từ trong đầu Anh ta chảy ra thấm vào hai ống quần của Tôi , Tôi cố chịu đựng ,buông ra Anh ta sẽ rớt ra ngoài mất, vứa về tới Khe Sanh  , máy bay chưa kịp đáp tôi đã nhẩy ngay xuống đất, không thể nào chịu nổi nữa , quên cả hai chân bị thốn , tôi ra dấu cho Anh Hiền đáp xong , lập tức lấy lọ dầu cạo râu After shaving loại OLD  SPICE trút hết vào đầu, phải nói là Tôi ngu thật, dầu thơm nó lại có tác dụng hút mùi thối , thế là khổ thân cho Tôi , chiều về tắm thế nào cũng không hết , cơm thì không thể  nào ăn vô được vì trong người lúc nào cũng thoang thoảng mùi  thối ,  bộ đồ bay lại càng không thể bỏ được, Tôi không mang theo nhiều đồ , thật may có một ông cụ ở Địa phương ,  trước kia làm nghề bốc mộ , ông chỉ cho Tôi cách khủ mùi thối, Tôi nghe theo ông, mua 5 lít rược đế , mua vài ký gừng , Gừng  đem giã ra và nấu với rượu , rồi đem ra tắm giặt  là hết ngay , quả nhiên tất cả những mùi thối đều biến sạch , Tôi cám ơn Ong già vô  cùng .Trong trận này Tôi được một Huy Chương Nhân Dũng bội Tinh  do  QĐ số 61/TTM/TQT ngày 14 tháng 04 năm 1971 và Một Huy chương Anh Dũng Bội Tinh cấp Lữ Đoàn  theo CL số 040/QĐ I /QK I  Ngày 16 tháng 05 năm 1971
               Khoảng tháng 4 năm 1971 PHĐ   HUÊ BIÊN MẪN  Tôi còn nhớ lần đó đang trực tại  Đức Lập , được lệnh đi thả một toán gồm 3 troops  về  hướng Tây cũa Đức Lập , khi quay máy thi hai chiếc bị hỏng , chỉ còn lại độc nhất có một chiếc của Tôi , lúc bấy giờ Capt. Car chỉ huy nơi đây , thấy vậy không muốn cho chúng Tôi đi , Ong nhờ Slick  của Hoa Kỳ thả hộ , nhưng chàng  Pilot  của Slick năn nỉ Tr/u Đinh Văn  Huê , ngày mai tao nhận giấy về Hoa Kỳ , nhưng theo luật các bạn tao bắt tao phai bay Phi Vụ cuối cùng , trước  khi từ giả chiến trường VN , vậy mày thông cảm cho tao , thả thế tao chuyến này , Tao sẽ  cover ở trên để  yểm trợ cho mày Tr/u Huê thấy không từ chối được nên đồng ý thả ba Troops đó , Khi PC vào đến LZ thì bị bắn bể tip cap , cái nắp chụp trên đầu cánh quạt để tracking máy bay , đuôi bị bắn nhiều lỗ ,  Cánh  quạt bị bắn thủng , kêu éo éo và rung dư dội , Tr/u  Huê vội đáp xuống  tắt máy kiểm tra , Tôi vội chụp Đại liên mang xuống đất chạy theo mấy chú  Team , trong khi đó Chú Tư Biên ( th/u Biên ) không biết sợ là gì , Anh vẫn yên chí ngồi đợi trên ghế Copil , Tr/u Huê lấy máy truyền tin của của Team liên lạc với chàng Slick , Anh Ta năn nỉ Mày cố gắng bay về đi  tao không thể xuống được, ngày mai tao về nước rồi và chàng ta năn nỉ làm  Tr/u Huê phải lưỡng lự , không biết bay về nổi không , Anh hòi Team nơi đây địch  quân có đông không , và Team trả lới là rất nhiều , Anh vội quay trở lại Máy  bay và leo lên quay máy , lúc  đó Th/u  Biên mới định leo xuống ,  cánh quạt máy bay kêu rất to và thân phi cơ thì rung chuyển mạnh , nhưng Tr/u Huê cố gắng lấy Airspeed bay về Đức Lập , Phi cơ bay về đến Đức Lập , chàng Pilot Hoa Kỳ lại cám ơn Tr/u Huê ráo riết , sau đó các bạn Anh ta tỏ thái độ chúc mừng  , bằng cách trói Anh Ta lại ,  đem treo vào Tail Skit , rồi giật  mấy trái khói màu quâng vào đuôi máy bay, đó là cách ăn  mừng của các chàng Phi Công Hoa Kỳ. Khi kết thúc một biến chuyển , như màn khóa hoặc đến ngày về nước . Vân…Vân..
     Cũng trong kỳ biệt phái này, Phi hành đoàn chúng tôi , được lệnh về tăng  cường cho Quảng Lợi , sau khi hoàn thành Phi Vụ ở Quảng Lợi , chiều hôm đó PHĐ chúng Tôi về sớm, bay thẳng về Saigon , khi  bay dọc theo quốc lộ 13 , qua khỏi Bình Long An Lộc  , đến xã Tân Khai, chúng tôi bay dọc về hướng đông qua Minh Hưng , bay sâu  vào trong rừng ,Tôi lấy làm lạ hỏi Mình đi đâu đây Anh Huê Anh nói Kiếm một con Nai đem về nhà cho Gia Đình Thế là Anh quần dọc theo Minh Hưng , nhưng nơi đây chỉ có Công mà thôi Anh bay lấn qua Minh Lập , bay gần đến Plantason Thuận Lợi Đồng Xoài , mới bắn được một chú Nai,   Anh bay  vòng trở về  đến căn  cứ Lai Khê,  Quân Đội Hoa Kỳ đóng Quân , Anh Huê đáp đại xuống mấy ụ Phi cơ tại căn Cứ này , nói tôi dùng Ba zơ nết của Biệt kích cho , xẻ ra 4 cái đùi rồi lau sạch sàn tàu ,đem cất vào sau  radio compartment, lúc đó mấy quân nhân Hoa Kỳ ra xem , họ đuổi chúng tôi không cho đậu tại  đó nữa  , Tr/u Huê bay lên dọc theo quốc lộ , đến gần bến cát Anh thấy một đồn  địa phương Quân hình tam giác nằn giữa ruộng , Anh bay tới vòng ba vòng , rồi bay đến cổng  đồn bảo  Tôi quăng cái mình Nai xuống , lúc bấy giờ mấy chàng Địa Phương quân , đột nhiên có thịt nai tư trên trời rơi xuống mừng rỡ vô cùng , sau đó Anh bay thẳng về Biên Hoà,  câu chuyện này tiếp tục  diễn tiến  như sau , Anh gọi đài kiểm soát Biên Hoà , cho biết Phi cơ vừa chở xác về , máu dính trên máy bay rất nhiều,  yêu cầu Đài Kiểm soát gọi xe chữa lửa ra rửa hộ tàu  , rồi Anh nói tôi kéo 4 đùi xuống Tail cone dấu , sau khi  xe  chữa lửa ra , Tôi và Thanh một nhân  viên kỹ thuật 219 đi theo,  cầm vòi xịt rửa máy bay , các nhân viên cứu hoả mon men lại gần , Tôi xịt  văng máu tứ tung ,  các chàng sợ quá tránh ra xa , tỏ ra rất là thán phục  chúng tôi , sau cùng Tôi phải xịt cả dưới sân ,  để máu và lông trôi vào trong cỏ , phi tang cho khỏi bị phát hiện , sau khi trả vòi , các chàng cứu hỏa còn bắt tay Tôi cám ơn, họ nắn nắn tay tôi ra vẻ  kính trọng trìu mến , tên đồ tể giả danh là người tốt bụng  này , câu chuyện vẫn chưa xong  , Tr/u Huê còn bay thẳng về cầu chữ Y bên bến Phạm Thế Hiển  , nói tôi thuê xe đem về nhà vợ Anh ở cư xá  trước rạp  chiếu bóng Capital đường Cao Thắng ,  và nhà Anh Nguyễn Văn Biên ỡ sau nhà thờ Bắc Hà , trước bệnh viện Nhi đồng đường Lý Thái Tổ.
     Ngày 09 tháng  10  năm 1971  (Tai  nạn  của hai PHĐ  Đ/U VŨ ĐỨC THẮNG TH/U NGUYỄN NGỌC AN TH/U NGUYỄN VĂN MAI & Đ/U TRẦN VĂN LONG TH/U NGÔ VĂN THÀNH TR/S TRẦN VĂN LIÊN )  Tai nạn này Tôi có tham gia,  nhưng lại không có  mặt  tại hiện trường ,  câu  chuyện như sau, Tôi không nhớ là lần đó biệt phái bao nhiêu chiếc , mà Tôi chỉ nhớ là ,trước đó một ngày ,Trưởng trại Quảng Lợi yêu cầu  Đ/u Vũ Đức Thắng  Kingbee Lead, cho tăng cường máy bay , để đi đón một đại đội về , Đ/u Thắng điện ra Ban Mê Thuật , yêu cầu  Đ/u Trần văn Long, cho tăng cường một chiếc ( lúc này Anh Trần văn Long cũng đã là Leader  ở Biệt Đội BMT ) Sáng sớm hôm sau phải có mặt  tại  sân bay Lộc Ninh . Chiều hôm đó  PHĐ   Vũ Đức Thắng  - Nguyễn Ngọc An - Nguyễn Văn Mai và PHĐ Tr/u Nguyển Hải Hoàn Th/u Nguyễn Văn Kim ( Kim méo) Tr/s Phạm Minh mẫn  bay về Saigon .
     Khi về đến nhà, Nguyễn Thanh Cần hiên đang nghỉ phép , đến nhà Tôi  yêu cầu ngày mai cho Cần đi thế một hôm , vì về phép nhiều ngày nay, đã hết  tiền  , muốn bay thế  chỉ một lần thôi , để lên Quảng lợi săn bắn kiếm tiền  tiêu vài ngày . Tôi đồng ý và giao Headset cho  Cần.
     Buổi sáng tinh mơ , hôm đó  Thứ Bảy ngày cuối tuần , hai PHĐ của Đ/u Thắng và Tr/u Hoàn bay lên Quảng Lợi , không lên thẳng  sân bay Lộc Ninh ngay Đ/u  Thắng cùng Tr/u Hoàn  rủ nhau đi săn kiếm  tiền tiêu ngày cuối tuần ,  không kiếm được Nai ,  Đ/u Thắng bắn được 5 con heo rừng , bảo Tr/u Hoàn chỏ về Lộc Ninh bán , đến sân bay Lộc Ninh thì Đ/u Long  đã chờ ở đó , Đại Uy Miller trưởng ban diều động hàng quân , cũng đang ngóng  chờ hai Anh Thắng và Hoàn , thấy máy bay có chở xác thú rừng , lại lên trễ nên Đ/U Miller đã  lấy máy chụp ảnh ra chụp hình chiếc của Anh Hoàn  để báo cáo.
     Rồi Phi vụ cũng đã được hoàn tất , nhưng rất trễ , đến 20 giờ tối mới cất cánh về Saigon, bầu trời Quảng Lợi tuy không được trong lắm , nhưng đây là ngày cuối tuần , Saigon chắc hẳn có lắm người ngóng trông , và ba chiếc  THẮNG AN MAI  & LONG THÀNH LIÊN   &  HOÀN KIM CẦN (  Đúng ra  thì Mevo đi với Anh Trần Văn Long là Trần Mạnh Nghiêm , Nghiêm là Mevo trước Liên , Phi Đoàn không cho anh em bay chung,  nhưng Đ/u Long lên BMT lại là Leader , khi về Quảng lợi sẽ về Saigon , nên rủ Liên cùng về) , khi ba chiếc bay đến xã Minh Hưng , cách Thị Trấn Chơn Thành khoảng 20 cây số ,  trời bắt đầu đổ mưa , và mưa mỗi lúc một to thêm , ban đêm trời mua nên không còn trông thấy gì , hai chiếc đầu Đ/u Thắng , Đ/u  Long bay lạc hướng về phía Xã Minh Lập , còn Tr/u Hoàn cứ bò theo đường Quốc Lộ 13 , đến sân bay Long Thành , một sân bay nhỏ nằm gần lề đường  ngay đầu thị trấn , Tr/u Hoàn không thể bay được nữa , đã đáp xuống đây sát đồn Cảnh Sát dã Chiến , khoảng nửa  đêm được tin Địch Quân có thể tấn công, trưởng đồn Cảnh Sát , phát cho Ba chàng Không Quân , ba khẩu M.16 ,  yêu cầu ra vòng đai nằm gác , thế là ba chàng vừa thoát tai nạn này , lại ập đến tai nạn khác , cứ thế mà nơm nớp lo cho đến sáng .
     Sáng  Chủ Nhật , tôi được Nguyễn Thanh Cần đến nhà trả Heaset , Mếu máo Hai chiếc Anh Thắng và Anh Long chết hết rồi , Tôi bàng hoàng trước tin  này , vôi chụp Headset mà cần trả mặc vội quần áo , nhờ chú Em cũng Không Quân , chở vào Phi Trường Tân Sơn Nhất , Gặp Anh Phạm Ngọc Sâm , được biết hai chiếc đã bị Vertigo , Tôi bay theo Tr/u Phạm Ngọc  Sâm lên Chơn Thành, lùng  tìm hai chiếc bị mất tích , sau đó tìm được  hai chiếc rớt  ở hai nơi cũng khá xa nhau,  đếu thuộc xã Minh Lập , nơi đây là  rừng chồi , nói rừng chồi nhưng cây cũng đã cao khỏi nóc nhà ,  hai chiếc đều bị cháy , ban đầu tìm ra xác chiếc của Đ/u Thắng  ba người Đ/U VŨ ĐỨC THẮNG TH/U NGUYỄN NGỌC AN TH/U NGUYỄN VĂN MAI , Cả ba đều bị cháy đen , sau nhiều giờ , mới tìm ra chiếc của Đ/u Long PHĐ  gồm Đ/U TRẦN VĂN LONG TH/U NGÔ VĂN THÀNH TR/S TRẦN VĂN LIÊN ,  hai người bị cháy đen là Thành và Liên,  còn Đ/u  Long chỉ bị xém sơ thôi,  nhưng mất cái đầu ,một Tr/s người Mỹ nói là tôi tìm mãi vẫn không thấy đầu Anh ta dâu cả , tôi cứ đi tìm tới trưa thì thấy His on the tree , như vậy có lẽ Đ/u  Long đã nhẩy  ra , bị Main rotor chặt , tình huống này có sảy ra ở Cần Thơ. Máy bay chúng  Tôi ,  đáp  ngay lề một đường mòn nhỏ,  các Biệt Kích lôi ra những cái Bông Sô , trong đó là ba xác Long , Thành , Liên , Xác Anh Long thật là nặng vì Anh rất mập , người to lớn , những chàng BK để dưới đất rồi bo đi ngay, một mình tôi ỳ ạch bế  ba chàng lên máy bay , đưa thẳng về Tử sĩ Đường  Tân Sơn Nhất , gần cổng sau của trại Nhẩy Dù Hoàng Hoa Thám .
     Như vậy là Phi Đoàn 219 , đã  tổn thất 6 người vào đêm thứ Bảy ngày 21 tháng 08 năm Tân Hợi tức là ngày 09 tháng 10 năm 1971 , Lần này  các Steps của PĐ 219 về cũng khá nhiều , vì gặp tình huống khó xử , do  hai Anh Em ruột cùng chết chung một lần , không thể chôn hai nơi khác nhau được , Nghĩa Trang MẠC ĐĨNH CHI , chỉ  cho chôn cất các Sĩ Quan mà thôi , Th/t Nguyễn Văn Nghĩa PĐT , vào Bộ Tư Lệnh Không Quân , nhờ can thiệp , nhưng vẫn không được , cuối cùng BTL.KQ quyết định,  cho Trung sĩ Trần Văn Liên chức Trung Uy gỉa định,  để  hai Anh Em cùng được  chôn gần nhau. Thật là đau thương , khi về đến gia đình Đ/u  Trần Văn Long , hai quan tài để song song , mẹ già khóc cho hai con … ( Có một việc mà tôi đóng ngoặc ở đây ,  trước  nay Anh Em trong Phi Đoàn hay cười Đ/u Long , mỗi lần về phép ,  Anh Em cứ hay rình Anh Long xem Anh Long đem cái gì về nhà trong túi Suitcase của KQ phát , mở ra toàn là Thuốc tây và đồ hộp … không cần quần áo. Sau nay khi đến nhà Anh Long mới hiểu được là Anh Long mồ côi  Cha từ trước năm 1953 , và mẹ già tảo tần nuôi bốn người con , chính vì sự cực khổ của Mẹ già,  Anh Long quyết chí vươn lên trong Xã hội , và hiểu được cái cực  khổ của Mẹ già  , Anh vừa Thi đậu Trung Học lập Tức tình Nguyện gia Nhập Không Quân , theo ngành Phi Công , và Anh cố gắng chuyên cần đã dược nhiều tập san trong trường Huấn Luyện Hoa Kỳ khen tặng , như bài  EXTENSIVE TRAINING IS PREREQUISITE FOR VIETNAM OFFICERS SAYS AIR CADET.  Bài viết của Pvt, Jimmy Edwards , bài viết còn chụp hình Anh Long và ghi chú phía dưới DEDICATED STUDENT Air Cadet Tran van Long makes a last minute check of his notes before reporting to USA PHS academics. Cadet Long states that he wants to learn as much as possible during his stay at Fort Wolters . Sau này Anh về PĐ hay khai bệnh,   để lấy thuốc về giúp đỡ nhưng người khốn khó trong xóm , và cho quà mọi người , đó là những hành đông giúp  đỡ những người nghèo khổ , mặc cho ai muốn hiểu Anh ra sao thì hiểu )
     Còn Th/u Nguyễn Văn Mai , Anh có nặng nợ với Phi Đoàn 219 , trước kia Anh đã là một Mevo già tại Phi Đoàn 219 ,  từ những ngày mới thành lập.  Sau Anh phải thuyên chuyển về PĐ 215 , rồi Anh lại xin ra PĐ trở lại,  mặc dù Mevo đã lên đến Thiếu Uy, nhưng Anh vẫn không ngại bay, chúc vụ cuối cùng của Anh là Cố Trung Uy Mevo Nguyễn Văn Mai.
     Sau nhiều ngày  ở lại Saigon lo dám táng,  cho những Tử Sĩ Kingbee 219,  tử nạn tại vùng trời Minh Lập Thị Trấn Chơn Thành , Chúng Tôi,   nhiều nhân viên phi hành  trở về Đà Nẵng , gồm  Th/t Nguyễn  văn Nghĩa ,  Đ/ Huỳnh Văn Phố , Đ/u Nguyễn Văn Tưởng , Tr/u Phạm Ngọc Sâm,Tr/u  Nguyển Hải Hoàn , Th/u Đỗ Kim Long . Th/u Phan Thành Lập , Th/u Nguyễn văn Kim , Th/sLê Phước Quý , Tr/s Phạm Minh Mẫn ,  một số Anh Em nữa mà tôi đả quên…  cộng  thêm vơí vài  nhân viên kỹ thuật, khi bay đến Bồng Sơn , máy bay bị hỏng Chip detactor , phải đáp xuống một đồn Địa Phương Quân , nằm trên một ngọn đồi thấp , tháng này còn dư hưởng của trận bão miền Trung ,  trời  lất phất mưa bụi , tầng  mây lơ lửng  , làm không khí hơi se lạnh, các Kỹ thuật viên xuống lúi húi mở carbo máy , đang sửa chữa , tất cả Anh Em , đều xúm nhau trên carbin  của chiếc đầu bị hỏng ,  ngồi đấu láo kể chuyện vui ,Tôi đang ngồi trên chính cái ghế  Mevo  của mình , bổng nghe tạch…tạch…tạch ba tiếng ,  tất cả theo phản xạ đều phóng xuống đất , chợt  nghe Th/u  Đỗ Kim Long la lên Tôi bị  trúng đạn  rồi Th/t  Nghĩa nghe vậy quay lại chửi Đ.M. giờ còn giỡn nữa . nhưng khi thấy Anh Long ôm mông , máu chảy ra , Anh Nghĩa  vội  ra lệnh cho Anh Em ,vào đồn trú ẩn của Địa Phương Quân , nhờ Y tá  băng bó , trong lúc đó các chiến Sĩ Địa Phương Quân , bắn xuống đồi như mưa , và tuyệt nhiên không có tiếng đáp trả, họ cho biết đó chỉ là những du kích bắn xẻ vậy thôi. Rồi họ cho một băng ca , đưa Th/u Long lên máy bay, lúc này Anh Long được nằm hẳn hoi trong khi các Anh Em khác phải ngồi.
     Và tiếp theo đây là sự diễn tả của Anh Phan Thành Lập, về chuyến bay này. (Đọc mấy hàng phân ưu này nhớ lại kỷ niệm xa xưa lắm vì  buổi sáng hôm đó chính Nguyễn Xuân Bách đã về CX Thống Nhất báo tin : Mày có hay tin gì chưa  thằng Ngô văn Thành đã bị mất tích chưa tìm được , cả hai PHĐ lúc đó chưa có tin xác nhận là cả hai Phi cơ  đều Crash , mặc dù Kim và T/U Hoàn đã đáp được an toàn.
     Kể cho Quỳnh nghe một kỷ niệm cũng rất Kinh Hoàng khó quên là sau khi bay về dự đám tang cho tất cả cố PHĐ  lúc bay trở ra     Đà nẵng  chút nữa là PĐ 219 lại mất thêm 2 phi cơ trên đó có Lập nữa , chỉ ngồi thùng với một số Anh Em khác . Vì ảnh hưởng của trận bão miền Trung lúc bấy giờ vẫn còn nặng lắm . Hai chiếc H.34 do T/T Nghĩa , Đ/U Phố , Đ/u Tưởng và hình như T/u Sâm lái . Lúc ra bay dọc theo bờ biển , gần khoảng Phan Rang thì phải { Đó là Bồng Sơn Anh Lập nhớ lộn  rồi } đáp đại bên  cạnh một đồn Địa Phương Quân để cho vài Anh Em kỹ thuật  mở máy kiểm soát vì đèn báo có metal chip  trong lúc chơ đợi  thì tất cả Anh Em 219 tụ tập trên một chiếc , trời lúc đó mưa tầm tã { mưa lất phất thôi Anh Lập ơi } để nói chuyện thì không ngờ mấy chú Du Kích  dám mò tới gần bắn một tràng AK về chỗ hai chiếc H.34  tất cả mọi người khi nghe  tiếng súng thì đều nhẩy xuống đất nằm trong vòng vài giây thì trong đồn cũng bắn ra đáp lễ lúc Lập nhẩy xuống  thì Th/u Long  ( Quỳnh còn nhớ Long  không ) cũng nhẩy theo bên cạnh nhưng rên rỉ Tao trúng đạn rồi , tay thì che trên mông  nhìn qua thì  thấy một lỗ nhỏ có rướm chút máu thì tao cũng hoảng . nhưng sợ tụi nó tấn công nên ráng cặp vai Long  vứa khom lưng vừa chạy vào trong đồn . Khi mấy chú VC rút lui rồi  thì phải liên lạc  medivac  chở Long đi Quân Y Viện  ở Nha Trang . Lúc trở ra coi lại thì   lỗ đạn trên thân tàu chỉ cách đầu của Lập  đang ngồi , còn Long thì đứng ngay bên cạnh  khoảng chùng 15 cm. Vậy mà cũng chưa hết . sau khi check tàu xong không có gì thì lại tiếp tục  mò theo bờ biển để trở ra . Lúc đó thì vào chiều trời cũng bắt đầu tối , cả một vùng thì một bên là biển đông phía trong thì nước ngập mênh mông không thấy được một ánh đèn , lúc đầu thì  còn  nhận ra bờ bãi , sau  một hồi thì mưa ào   ạt  nhìn xuống không còn phân biệt  đâu là bơ đâu  là biển nữa . Hai chiếc H.34 thì  chiếc thứ hai Tưởng lái  bám theo mà bay . Tất cả sinh mạng đều tùy thuộc  vào khả năng bay  của T/T Nghĩa , nổi tiếng là bay instrument  rất vững . Lúc bấy giờ  Quỳnh biết không  lần đầu tiên trong đời tao … khấn  trời đất  cho tai qua nạn khỏi . Ngồi thùng của chiếc  số  hai , nhìn góc độ của các giọt mưa  qua khung cửa  để mở  nhờ ánh đèn chớp màu xanh  bên mặt , lúc thì gần như ngang , lúc thì gần như thẳng  ngóng cổ nhìn  đèn chớp của chiếc 1  thì lúc cách thật xa , lúc sắp thật gần  thì biết là cả hai chiếc  đều bắt đầu bay lạng quạng , thân mình thì vừa  ứơt vừa lạnh  và …… Sợ mà không thể làm gì  được  chỉ biết ngồi chờ ….tới phiên mình mà thôi . Chịu đựng như vậy cả tiếng đồng hồ mới thấy được ánh đèn  vòng đai  của Căn Cứ Chu Lai . Mưa cũng bắt đầu tạnh . Đáp được xuống Phi Trường  Đà Nẵng T/T Nghĩa mặt rất trầm ngâm  than Đ.M  sao PĐ sui quá. Ngày hôm sau PĐ  tổ chức một số Đại Đức  tới để làm lễ cúng  Cô Hồn   và vong linh các Cố chiến hữu  ngay tại Phòng Hành Quân. )
              LẬP.

     Câu chuyện cúng tế này , không phải do Anh Nguyễn Văn Nghĩa chủ xướng,  Anh Nghĩa  là người  đạo công  giáo , Anh không tin vào cúng tế , theo  Tôi   có  lẽ  là các Anh  Steps khác thì đúng hơn .
          Năm  1971 có một thay đổi lớn, là Phi Đoàn 219 di chuyển đơn vị , xuống  chỗ gần Cứu Hoả sát  Air America , Theo nhu cầu  Việt Nam hoá chiến tranh ,  các Phi Đoàn trực thăng  của Quân Đội Việt  Nam Công Hoà , phải thay đổi các loại Trực thăng cũ kỹ già nua CHOCTAW CH.34 của hãng Sikorsky , chuyển sang trực thăng loại SLICK   UH.1  của Hãng Bell chế tạo. Nhưng vì nhu cầu làm việc của Phi Đoàn 219 , TT  CH.34 thích nghi với nhưng công  việc  mà PĐ 219  đang đảm trách,   nên  mới  giữ lại cho đến cuối năm 1971 , PĐ mới thay đổi loại máy bay mới này , để lại trong lòng những chàng  KINGBEE những tiếc nuối khôn nguôi. CH.34  RA ĐI   UH.1  MỚI VỀ                  
Đầu năm 1972   Tôi nhớ có một lần biết phái ra Huế , ở tại một căn cứ tạm của Lực Lượng đặc Biệt , nơi này từ cầu TRƯỜNG TIỀN đi xuống  rẽ trái là Khách Sạn Hương Giang,  đi thẳng  500 mét rẽ trái , căn cứ năm gần góc đường phía bên phải , trước kia la khu nội trú Sinh viên , sau trở thành doanh trại Quân cảnh Tư Pháp , rồi  nhường  lại cho LLĐB ở tạm , trong thời gian chờ giải thể . Chúng tôi có Bốn chiếc , hai Phi Hành Đoàn thay phiên nhau , hôm nay đi ngày mai nghỉ , chỉ có một phi vụ mà xuốt 5 -  6 ngày chưa hoàn thành , Nhiệm vụ thả hai BK  mặc thường phục , không trang bị vũ khí , họ nhẩy xuống Cam Lộ , tất cả PHĐ cũng đều phải mặc thường phục màu sậm , để lại địa chỉ cấp báo , và cứ đến chiều tối mới xuất phát , Tôi bay chung với Anh Tr/u  Hiệp  và Th/u nguyễn văn  Tiều , cứ đến  chiều  là bay lên Tây Lộc Standing by,  cho đến  sau  19 giờ là cất cánh , Th/t Tống Phước Hảo và một Tr/T Hoa kỳ đến bắt tay trước khi khởi hành , bay một đoạn , máy bay hỏng vô tuyến phải quay về , ngày hôm sau  hai chiếc khác  , ban ngày Kỹ thuật sửa chữa  tối là làm việc , không hiểu sao cứ chiều Tối,  Máy bay không hỏng cái này,  cũng hòng cái  khác , càng kéo dài nhiều ngày càng mệt , bản thân Tôi cũng thấy mệt mỏi, ban ngày thì nóng , cơm thì khô , thật khó nuốt , lúc nào cũng thấy như không muốn ăn cái gì cả, cứ như no hơi , và một buổi tối tôi năm cạnh Tr/u  Hiệp tôi nghe Anh thở dài , không biết là anh mơ hay tỉnh,  Anh nói Thôi thì Cố Đại Uy cũng phải ráng , cứ như thế này thì không thể nào chịu nổi ròi .
     Qua ngày hôm sau , Tr/u  Hiệp quyết định làm cho xong , dù máy bay có hư hỏng cũng phải cố gắng , đúng 19 giờ 30 chúng Tôi cất cánh , Anh chấm tọa độ và định thời gian từ Tây lộc đến LZ  thời gian bay bao lâu , Anh tắt tất cả Rotortinglight ,  lấy cấp trực chỉ bay thẳng đến LZ , Đến nơi , Anh yêu cầu chiếc thứ nhì bay lên cao , Anh Descends xuống  , thấy đất  mờ mờ Anh lập tức bật Landinglight  ,  đáp ngay xuống , đây là một nơi rất quen, nó là  một nghĩa trang , ở dưới địch quân đặt sẵn súng cối , đại bác  phòng không rất nhiều , bất ngờ địch quân chạy tán loạn , hai BK quân  lao xuông  chạy mất dạng , Tr/u Hiệp cất cánh ,tắt hết đèn , bay low leval một đoạn rồi mới mông  tê lên cao , khi về đến nhà , Anh Hảo và trưởng trại ra ôm chúng tôi mừng rỡ, mission đã được hoàn thành.Lần này Tôi được một huy chương Phi Dũng bội Tinh  cánh chim đồng  theo QĐ số  001/SĐ I KQ ngày 23 tháng 02 năm 1972.Và cũng  vào ngày 01 tháng 01 năm 1972 Tôi được lên TRUNG SĨ NHẤT  theo QĐ số 02420/TTM/KQ/NV/ TQT/TTHC/TT  ngày 08 tháng 02 năm 1972.
     Năm 1972  Tôi cũng đa quên mất ngày chính sác , có  hai chuyện vui không biết Anh HUỲNH VĂN PHỐ  còn nhớ không , năm dó Phi Đoàn 219 chưa dời về Nha Trang lúc chuyển tiếp từ CH.34 qua UH.1  , Phi Đoàn nhận thêm một số anh Em Gunner , hôm đó hình như chưa có Anh Hảo , một Gunner chạy  vô đứng trước bàn Đ/u  Phố  , đưa tay chào thật nghiêm ,đúng quân phong quân kỷ  nói Thiếu Tá … cho Tao đi phép đi lúc đó Anh Phố tức quá không biết làm sao ? …, vào phòng CHT  nói với Th/t PĐT Nghĩa , Anh Nghĩa bật cười Trời đất ơi  … thằng khùng mà … cũng tức sao ?   đó là Hạ Sĩ  Trần Phát , Anh Ta người Hoa nên cách ăn nói không rõ ràng . Và một chuyện mà Tôi cứ tức cười và  nhớ mãi , khi PĐ nhận Gun Ship thì có một số  Crewchief bên các Phi Đoàn Trực Thăng của Hoa Kỳ , sang huấn luyện cho các Mevo CH.34 tại Phi Đoàn ,  sau 15 ngày các Crewchief Hoa Kỳ  kiểm tra lại các Mevo PĐ , họ yêu cầu Mevo tìm   chỗ  nào hư hỏng báo  cho Họ  biết , đến phiên  Thượng sĩ Võ Văn Hồng ( Hồng sún) , Anh leo lên đuôi may bay ,  Anh lắc cái đòn cân bằng ,đổi sải của cánh quạt  đuôi , anh thấy nó lỏng  , nhưng Anh không biết diễn tả như thế nào cho người Mỹ họ hiểu , bí qúa anh nói  đại Crosshead sục sịch   Anh chàng thượng sĩ người Mỹ gật gù Oh! Crosshead Bullship ha !…  good…good…good ! thế là mấy anh chàng người Mỹ , thưởng cho Anh Hồng một cái hộp quẹt Zippo, sau đó Phi Đoàn mời các chàng Mevo người Mỹ vào  câu Lạc Bộ của Anh Nhơn ở tại Phi đoàn, do đầu bếp Woằng A Sáng  đảm trách , hôm đó một bữa tiệc linh đình thết đãi các huấn luyện viên Hoa Kỳ.
       Vào khoảng tháng 3 năm 1972  Tr/u HÀ TÔN   bay Huấn luyện cho một Pilot mới về  là Th/u ĐẶNG QUÂN ,  sáng hôm đó Anh Tôn  xem Phi Lênh là bay huấn luyện với Quân , Anh bay ra  đầu Phi Trường khu vực gần Non Nước  cho Anh Quân  bay sau khi bay tập nhiều động tác  , Anh thả cho Th/u  Quân đáp Force Landing , lúc xuống tới đất Th/u Quân flare lại thật nhanh , chạm  tail skit xuống đất , lúng túng TH/u Quân quên kéo colective pitch stick   lên , làm PC  đập mạnh xuống , trong lúc đó Tr/u  Hà Tôn đã   cài Saferty bell lại quên lock  Harness  nên bị Syclic stick đập vào ngực , ( giống tình trang Anh Cung ) Anh đã bị chết ngay sau đó . Lúc đó gia đình Anh Hà Tôn ở Đà Năng , Phi Đoàn đưa  xác Anh về quàng tại nhà , rồi Quan tài Anh Hà Tôn được PC chở về Saigon, an táng tại Nghĩa  Trang MẠC ĐĨNH CHI .
     Đến ngày 25 tháng 04 năm 1972 , Phi Đoàn chuyển đơn vị  về NhaTrang  , buổi trưa hôm đó  khoảng 14 giờ toàn bộ Trực Thăng  của Phi Đoàn 219 , đáp đầy đủ tại Parking riêng  của Phi Đoàn,  nằm Phía sau Phi   Trường , gần cổng nhỏ đi ra hướng chợ  Phước  Hải Nha Trang , Phi Đoàn được toạ Lạc tại Trại Bắc Bình Vương, ( Nơi trại Lực Lượng Đặc Biệt  Đoàn 75 cũ ) , Đây là lần đầu tiên,  Phi Đoàn được thừa hưởng một vị trí khang trang, sạch đẹp , Phòng làm việc của Chỉ Huy trưởng rất đẹp , tất cả nhưng phòng nghi , phòng họp cũng đẹp , được trang  trí hoa mỹ , dưới  bàn tay khéo léo Mevo ĐỔNG MINH  SANH  , làm cho Phi Đoàn có một vẻ sang trọng , bên cạnh là nhà riêng của Chi Huy Trưởng  , thông ra sân rông lớn trước mặt Phi Đoàn , có một dẫy cột cờ  , lối đi rộng rãi bên hông Phi Đoàn , phân chia  4  dẫy phòng , mỗi dẫy phòng đều  có lầu , một dẫy như vậy có 10 phòng rộng rãi , trước mặt Phi Đoàn có một số gia đình của Phòng vệ phi trường , khu vực này vẫn có hàng quán và bàn Billard , Anh Em Kingbee  rất vui vẻ và thoả mãn, Phi Đoàn còn được thừa hưởng một khu gia binh  ở đường trước mặt cổng  Long Vân rẽ trái khoảng 500 mét, một nơi rất rộng   nằn trên đường LÊ VĂN DUYỆT   lúc bấy giờ,  đó là Trại HÀM TỬ, các Kingbee thật là hãnh diện .
      Sau đó dể làm lễ ăn mừng , Phi Đoàn mới  cũng là ngày Phi Đoàn 219 ăn mừng chiến thắng Quảng Trị , rút hẳn quân về NhaTrang , Anh Nghĩa cho  triệu Tập toàn thể NV.PH  làm lễ NHIỆT LIỆT CHÀO MỪNG CÁC CHIẾN SĨ TRỞ VỀ SAU CHIẾN THẮNG QUẢNG TRỊ .  Trong lúc đó những chiến sĩ KINGBEE vẫn còn hành trang và lấm bụi chiến trường , xếp hàng trước sân cờ 219,  nghe Th/t CHT  Nguyễn Văn Nghĩa  đọc lời chào mừng . Rồi toàn thể NV.PH chén thù chén tạc ngoài trời cười nói vui vẻ , Tôi lúc đó có máy ảnh, đã ghi lại những giây phút huy hoàng đầy tình nghĩa này. Và các Anh cũng đã được xem ảnh. Rất tiếc là đã thất lạc  đi rất nhiều hình ảnh, nên không bộc lộ  được hết những phút giấy ấm cúng đó.
     Rồi thời gian thấm thoát , kể từ ngày Phi Đoàn 219 dời về NhaTrang , cũng sau vài tháng  Phi Đoàn gặp một tai nạn của  PHĐ : Tr/u Trần NGỌC A -  Th/u Lê Hoài PHƯƠNG -  Th/s Phạm Văn  THỊNH -  H/s Nguyễn Văn  DIỆP . ( Chi tiết cũa Phi Vụ này Anh Lê Hoài Phương  biết rõ, hiện nay Anh Phương  đang ở Michigun Hoa Kỳ số ĐT :   616  -  273 1610  ) .Lúc này Phi Đoàn thường biệt phái ra Phú Bài , Anh Trần Ngọc nhận phi vụ  trực tại cấy số 17  Huế ,  chờ lệnh điều động , sau đó Anh được lệnh bay hành quân tại Khu vực phía Tây cây số 17 , khi bay đến khu vực  rừng chồi , có rất nhiều bụi Le một loại tre  thân nhỏ , Bất ngờ địch quân ẩn nấp trong các bụi tre bắn lên , Phi cơ trúng đạn bị  rơi xuống , khi  máy bay chạm mặt đất , lập tức  Phi Hành Đoàn vội vàng nhẩy ra khỏi máy bay , bỏ chạy về hướng  có có đồn Địa phương Quân , sau lưng địch quân bắt đầu xuất hiện  , họ đuổi theo ráo riết , nhưng tuyệt nhiên không dám đến gần các Anh , Họ la lớn Hàng sống chống chết , họ  càng đuổi càng la , như  thế …làm các Anh bấn loạn , thật tình mà nói,  các Anh chỉ chiến đấu trên không  , không có kinh nghiệm tác chiến dưới mặt đất . Tr/u  Lê Hoài Phương , ra trường và đã chiến đấu từ Bộ Binh , Anh chuyển sang Không Quân ,  nên đã  có kinh nghiệm  tác chiến … nhanh chân hơn , Anh vội chạy ngay  sang hướng khác , đến một bụi le  , rất may phía dưới gốc bụi le có một hầm trú ẩn , đã được địch quân đào sẵn  , Anh chui hẳn vào trong hầm , (Theo phương châm TRỐN CHỖ NGUY HIỂM NHẤT LẠI LÀ CHỖ AN TOÀN NHẤT ), thế là Anh được thoát , còn Trần Ngọc Mevo Phạm Văn  Thịnh , Gunner Nguyễn Văn Diệp bị địch quân bắt giải ra Bắc . Sau  đó máy bay TT , suốt ngày lùng sục , tìm tung tích PHĐ bị bắn rơi , nhưng vẫn không tìm thấy , đến chiều tối  hôm đó họ bỏ cuộc , sáng hôm sau sẽ tiếp tục tìm kiếm. Về phần Tr/u  Lê Hoài Phương , khi địch quân đã bắt được ba người đồng đội của Anh , Anh  năm đó đợi cho địch quân rút ra khỏi khu vực , Anh đang  trốn, cho đến chiều , Anh bắt đầu mon men theo hướng mà Anh nghĩ  là có Quân bạn , thật cẩn thận và cố không gây chú ý , Anh mò mẫm mà đi , cho đến chập choạng tối , Anh về đến được gần đồn Địa Phương Quân , khi đến nơi thì trời bắt đầu tối , Anh thấy trời tối , một phần vì sợ mìn phòng thủ quanh  đồn , một phần vì trời tối quân bạn không nhìn ra ai sẽ bị bắn lầm , nên Anh không dám bao đông cho quân bạn  ( Đây thật là một kinh nghiệm với những quân nhân đã từng chiến đấu đường bộ ). Đến sáng, Anh thấy trong đồn bắt đầu có sinh hoạt, Anh mới la lên ,các Quân nhân trong đồn chạy ra đưa Anh vào trong trại , khi đó Anh mới được biết  đồn này nằm gần căn cứ SALY. Đây cũng là sự thông minh của một Phi Công  biết cách thoát hiểm trước tình huống nguy ngập.
 (Anh Trần  Ngọc kể lại :  Chuyến  bay định mệnh  ngày nào đã xô  đẩy  tôi phải xa rời tất cả  Anh Em bạn bè  từ gần 30 năm nay rồi Ở trại tù  Bắc Việt , trước năm 1975. Tôi đã  gặp  các Anh Chung Tử Bửu, Bùi Tá Khánh  và Võ Văn On bị cụt  một chân. Sau năm 1975 Tôi gặp Anh Nguyễn Văn Nghĩa và rồi khoảng 6 tháng sau  thì Anh mất vì bị bệnh ung thư bướu ở cổ)
 
CUỘC GIẢI CỨU 3 BIỆT KÍCH TẠI TAM BIÊN
 Đầu năm 1972
PHD:   Đ/u Huỳnh Văn Du – Th/U Trần Mộc Đảnh – Th/s Phạm Minh Mẫn – Hs Trần Phát .
Thời gian này PD 219 có một biệt đội biệt phái tại doanh trại lực lượng đặc biệt Trai có tên là c2 , đồn trú tại đầu phi trường Pleiku trước chợ Cù hanh. (đến ngày 17 - 3 – 1973 đoàn ct 75 mới về nơi này và đổi tên trại là LONG BIÊN)
 Hôm đó  Biệt Đội của PD 219 được lệnh đi rước một toán đến ngày về, cùng thời gian này PD 235 Sơn Dương tại Pleiku , cũng đi thả một toán Lôi Hổ , xuất phát từ trại B.15 KonTum, Biệt Đội 219 bốc một toán ở gần  song MeKong , đã đến ngày về, PD 235 thả một toán 10 dặm phía bắc của Phi trường  La Băng Súit Cam Bốt , trên đường cùng đi
PD 235 bắt đầu thả toán , chiếc thứ nhất xuống trước thả 3 troops(sau này tôi mới được biết là thả 6 troops cho 1 trực thăng, nhưng chiếc đầu chỉ mới nhảy xuống 4 troops,2 troops còn trên tàu nhưng bị tử thương 1 troop ngay trên phi cơ khi cất cánh lên, địch quân bắn theo tơi tả, chiếc thứ hai không xuống được, nhưng họ cũng không chịu đón 4 troops đang nằm chịu trận tại LZ, rồi một BK bị bắn chết tại LZ là Đào Hồng Thủy thuộc CD2XK )
      Đau long vì các Anh Biệt Kích bị bỏ rơi Đ/u Huỳnh Văn Du vừa bay ngang qua đó la lên “ Tại sao các ông không chịu đón người ta về “, Trên Phi Cơ quan sát một tr/u Lôi hổ tôi quên mất tên có lẽ là Tr/U Nguyễn Hữu Thọ vì anh phát ra giọng bắc nhưng sau này được biết là đai úy Lê Đình Vũ, Đ/u Vũ nghe được giọng Anh Du, mới yêu cấu…”Anh Du đó phải không, anh có thể giúp đón mất thằng em về được không Anh Du “ Anh H.DU đồng ý ngay và nói :” Mẫn chú xem hướng mấy giờ “ Tôi trả lời ngay “ hướng 3 giờ đó anh Du” Anh H.Du lập tức  rẽ phải và descends xuống ngay LZ và yêu cầu “ Cho yểm trợ đi “, trong lúc này trực thăng vũ trang  yểm tợ bắn chung quanh LZ rất ráo riết, LZ rộng như một sân đá bóng, cây cao cũng khoảng từ 20 mét đến 30 mét, khi chúng tôi xuống đến nửa thân cây, tôi trông thấy 3 biệt kích đứng lên chạy về hướng máy bay, thình lình tôi trông tháy rõ ràng, một biệt kích bị bắn vào đầu gối, chỗ vải từ đầu gối tóe ra, anh ta gục xuống, phi cơ đáp  cách chỗ 3 BK khoảng 20 mét, hai BK chạy thẳng đến Phi cơ nhảy lên ngay còn lại một anh BK bị thương, anh ta không đi được, hai tay nắm từng cọng cỏ kéo lê thân mình trườn tới, tôi có cảm giác như PC trúng đạn nhiều nơi, bên vai tôi cái túi treo bịch gạo xấy P.I.R rung rung vì trúng đạn, bịch gạo sấy Tôi mới vừa đổ nước sôi vào và cũng đã nở …bao bị rách mùi gạo sấy P.I.R bốc lên thơm phưng phức, khi anh BK bi thương chụp được vào Skit, Anh H.Du hỏi Tôi “ rồi chưa Mẫn “ , Anh Du vội kéo PC lên, Tôi trả lời anh Du “ chưa , chưa , Anh Du “ Anh Du lại lập tức ấn PC xuống, máy bay trườn tới một chút, Tôi và 2 BK trên máy bay kéo được Anh BK bị thương lên PC, Anh H.Du cất cánh ngay, lúc đó địch quân bắn theo dữ dội, Tôi nghe bụp, bụp, nhiều phát , thấy PC khựng lại , rồi bị mất tua, PC như có cái gì  ghì xuống , rồi lại bốc lên, Anh Du la lên “ chết cha …đứt giây gar rồi “. Thật là may mắn vì trên các loại UH.1 khi tay gar bị đứt nó lập tức trở về ngay hệ thống tự động,  vòng tua tự động tăng lên 6,600 RPM, vì vậy nó ghì lại một cái rồi lại bốc lên, chiếc PC chồm lên chồm xuống nhiều lần như  nhẩy qua nhiều con sóng, lết qua khỏi được ngọn cây về hướng bắc của LZ. Trong lúc này gunner Trần Phát bị thương nơi đùi, chui vào phần mềm không trúng xương,, còn hai BK không bị thương  đang băng bó cho đồng đội bị bắn bể khớp gối. chàng BK bị thương la lên một cách tuyệt vọng và đau đớn “ bắn tôi chết đi , đau quá , chịu không nổi “ còn gunner trần Phát thì lết qua chỗ tôi nói “ Em bị thương như vậy Phi Đoàn còn cho Em bay nữa không Thượng sĩ “, Tôi vừa lo lại vừa buồn cười, cái chú này đúng là điếc không sợ súng, anh Du  bỗng la lên “ Chết rồi Mẫn ơi đồng hồ Oil Pressure kìa “ Tôi nhìn lên Instrument panel, trông tháy kim đồng hồ Oil Pressure lúc lắc lên xuống vài cái rồi rớt gục hẳn xuống phía dưới. Trong khi đó nhìn xuống phía dưới PC là sân bay La băng Súit, chiếc Trực Thăng của PD 235 bị bắn thủng bình xăng họ bỏ đó, cánh quạt vẫn còn quay tít, có nghĩa là PC chưa tắt máy, Tôi nhìn chiếc trực thăng mà lòng đau sót, Tôi quay qua hỏi anh DU “ còn mấy phút thì về tới Phi trường Lệ Minh Anh Du “, Anh Du trả lời “ khoảng 15 phút “ Tôi nói “ Anh có thể ráng bay về được không “ Anh Du nói “ dược Được “ Khi PC bay về đến Phi Trường  Pleizoreng  Lệ Minh đang Hovering trên Parking  tôi nghe một cái ịch PC tắt máy hoàn toàn và rơi xuống đất, thật may chỉ còn cách một mét trên mặt đất, khi xuống đất tôi nhìn lại chỗ tôi nghồi , mới thất thật rùng rợn, giống như họ làm xiếc phóng dao, đạn ghim đầy trên máy bay, chung quanh người Tôi , tôi suy diễn lại như sau : Khi anh Du xuống địch quân nhắm vào Pilot, mục tiêu quá gần, nhưng khi đó anh Du đáp xuống, đạn trợt về phía Tôi trúng cái mũ lưỡi trai và làm bể bịch gạo sấy treo bên cạnh vai Tôi, thấy trật , địch quân trông thấy tôi mặc áo bay đen rất rõ ràng, chúng chỉnh qua hướng Tôi mà nhắm, thì anh Du lại kéo máy bay lên, lần này lại trật nữa, thùng đạn dưới chân tôi bị nhiều lỗ đạn rất sát nhau, thấy trật chúng lại chỉnh lên, anh Du lại ấn PC xuống và PC lại nhích tới phía trước, thế là địch quân lại bắn trật nữa, bên vai phải tôi PC bị nhiều lỗ đạn, đồng hồ áp lực nhớt bị nhịp từ lúc này, sau đó PC cất cánh chúng bắn với theo làm đứt giây gar .
       Sau khi quan sát chỗ tôi ngồi, Tôi mới phát hiện ra lúc đó, tôi đi lại như đi trên mây…hai chân như có tấm đệm, người cứ lâng lâng như bay bổng, tôi đi lại như bị say gió,Có lẽ đây là biểu hiện của sự sợ hãi chăng ?...
       Nhưng qua trận này , chúng Tôi cảm thấy hãnh diện, vì chúng Tôi đã  cứu được Ba chiến hữu Lôi hổ, thậm chí thay vì bỏ máy bay như PD 235 thì chúng Tôi lại cố gắng đem máy bay về căn cứ an toàn (qua lời kể lại của BK Huỳnh Cẩm Sanh DCT.75 Tôi hiểu được sự việc,thì lúc đó trực thăng của PD 235 không thể xuống được nữa họ không sai trong việc này, trên phi cơ của họ một BK bị bắn chết và một NV phi hành bị thương trực thăng bị thủng bìng xăng lúc viết bài này chính tôi đã hồ đồ không hiểu sự tình mong quý vị 235 bỏ qua.)

MINH MẪN 219
ĐÀO HỒNG THỦY-NGƯỜI Ở LẠI TAM BIÊN
Sau khi tốt nghiệp khóa Hạ Sỉ Quan Trường Huấn Luyên Đồng Đế ở Nha Trang. Với cấp bậc Trung Sỉ, Đào Hồng Thủy đã chọn đơn vị Nha Kỷ Thuật để phục vụ đời binh nghiệp và được đưa về Đoàn 72 do Cựu Trung Tá Cẩm Ngọc Huân làm Đoàn Trưởng. Đây là thời thời gian Đoàn 72 vừa mới thành lập để chuẩn bị học khóa Chiến Tranh Ngoại Lệ cùng vơí các Đoàn 71, 75. Tất cả các Đoàn đều ở trong khu vực của vòng đai phi trường Nha Trang về hướng đường Phước Hải đi vào. Các Toán trong lúc học Chiến Tranh Ngoại Lệ gồm có 4 Sỉ Quan và 8 nhân viên Hạ Sỉ Quan  không biết TS Đào Hồng Thủy lúc đó đã ở Toán nào. Nhưng sau khi tốt nghiệp khóa Chiến Tranh Ngoại Lệ, không biết vì lý do gì mà Đào Hồng Thủy và một số anh em khác được đưa lên phục vụ ở Chiến Đoàn 2 đóng tại Kontum.  Khi Đoàn 72 được đưa lên Kontum để hành quân nhảy toán thực tập thám sát ở các rừng núi đường mòn HCM,Cao Nguyên và vùng Tam Biên Việt - Miên - Lào. Mổi lần nhận công tác xâm nhập thì các Toán đều được Chiến Đoàn 2 bổ sung thêm 2 ‘ hướng đạo ’ để trợ giúp Toán có kinh nghiệm lúc di chuyển trong đường rừng. Trong một lần công tác nhảy toán vào một vùng ‘ nóng ’ ở Tam Biên, Toán 723 của tôi được Chiến Đoàn 2 bổ sung thêm một Biệt Kích người Thượng và TS Đào Hồng Thủy ( Thủy đã phục vụ tại CD2 như trên đã nói ). Những công tác trong thời gian thực tập nầy thường đi đũ 12 người như quân số của một Toán trong hoạt động Chiến Tranh Ngọai Lệ vậy. Toán chia làm 2 tổ, gồm có bán tổ A do Trưởng Toán là tôi chỉ huy và bán tổ B do Toán Phó ( cựu T/uý Tùng ). Lúc Toán được Trực Thăng đưa vào vùng xâm nhập, máy bay của bán Tổ A luôn bay dẩn đầu để sẳn sàng nhảy xuống bải trước, sau đó máy bay của bán tổ B sẽ xuống sau.  Hôm đó, một buổi sáng nắng ráo bầu trời quang đãng trong không khí lạnh mát của rừng núi Cao Nguyên vào những ngày cận Tết năm 1971. Chiếc máy bay trực thăng bán Tổ A chở tôi cùng các toán viên Trung Sỉ Ngô Quang Đợi, Huỳnh Cẩm Sanh, Huỳnh Thanh Phong, Nguyễn Văn Thoại và Đào Hồng Thủy đang bay bám theo sau chiếc O1 của Tiền Không Sát Đại Uý Lê Đình Vủ dẩn đường vào vùng, và theo sau máy bay của bán Tổ A là trực thăng chở bán Tổ B của T/úy Nguyễn văn Tùng cùng 4 nhân viên của toán và một người Biệt Kích Thượng của Chiến Đoàn 2 đi theo. Kèm hai bên trái phải của 2 máy bay trực thăng chở Toán 723 là 2 chiếc máy bay hỏa lực Cobra, thỉnh thoảng bay lên cao rồi là xuống thấp gần sát các ngọn cây rừng trông thật ngoạn mục. Ngước mặt nhìn lên bầu trời cao xa xa, thấy thêm một trực thăng trống dùng để cấp cứu khi cần. Tôi ngồi thòng 2 chân ra bên ngoài mép trái của trực thăng cùng TS Thủy, còn TS Đợi và Sanh ngồi bên mép phải trực thăng, ngồi giữa máy bay là TS Phong và Thoại. Rừng núi vùng Tam Biên địa thế tương đối bằng bằng nên tầm nhìn con mắt khá xa với cây rừng trùng trùng màu xanh đậm trong buổi sáng trời nắng tốt. Tiếng động cơ kêu ‘ bùm bùm’ của máy bay như nhịp trống quân hành làm quên đi những lo âu hối hộp và làm dịu đi tiếng đập mạnh của con tim của buổi đầu đi nhảy toán. Thỉnh thoảng tôi đưa bàn tay lên túi áo ngực trái sờ nắn viên đá nhỏ mà tôi đã lượm bỏ vào túi trước khi lên máy bay, như một lá bùa hộ mạng và lâm râm “ ANH PHẢI SỐNG “ để đem viên sỏi nhỏ nầy trả lại cho sân bay khi xong công tác. Sau nầy, trong những lần nhảy Toán, tôi âm thầm thường làm vậy như một thói quen để trấn an những lo âu trong những lần công tác nguy hiểm, và tin tưởng “ANH PHẢI SỐNG “ để trở về.   Hơn nửa giờ bay, máy bay chở Toán 723 đã vượt qua những rừng núi bao la trong buổi sáng đẹp trời.Từ hướng xa phía trước gần sát ngọn cây, tôi thấy chiếc O1 như một con bồ câu trắng cô đơn đang bay lượn một vòng quanh vùng đất nhỏ trống trải rồi cất vút bay lên cao bầu trời ra khỏi tầm nhìn của tôi. Tiếp theo 2 chiếc Cobra như 2 cánh én đen lạng xà xuống nơi bải cỏ lau sậy ấy rồi bay lượn lòng vòng quan sát quanh vùng. Người xạ thủ đại liên của trực thăng đưa ngón tay cái ra dấu cho tôi biết máy bay đang vào vùng và chỉ ngón tay về hướng bải đáp khá trống, nơi chiếc O1 của Tiền Không Sát vừa mới bay lên. Từ trên cao tôi thấy bải đáp thưa thớt cỏ lau sậy và bao boc xung quanh là một rừng cây rậm rạp. Mắt đăm đăm nhìn bải đáp càng rỏ dần theo độ bay xuống thấp của chiếc trực thăng, và khi chiếc trực thăng chở bán Tổ A của tôi đang bay là là chầm chậm xuống bải đáp làm cỏ lau sậy nằm rạp xuống như một tấm thảm xanh mịn màng. Với phản ứng tự nhiên, tôi vội vàng vổ vai Thủy nhảy xuống bải cùng lúc. Chưa kịp quan sát thì nghe những tiếng nổ đạn bom, đất cát bắn tóe tung như xé tan màng nhỉ. Ngoái đầu nhìn lui, thấy chiếc máy bay chở bán Tô A đã bị trúng đạn phòng không của địch, đang lắc lư chậm chạp cố bay lên cao với làn khói đen dày đặc kéo theo sau, như hình một con rồng đen lướt trong gío mây.  Còn chiếc trực thăng bán Tổ B của Tùng vội quay hướng bay về phải rồi bốc lên cao lẩn trốn vào các đám mây trắng.  Hai chiếc Cobra bay lạng sát ngọn cây bắn xối xả các tràng đạn đại liên, phóng pháo M79, Rocket xuống các rừng cây quanh bải đáp. Tiếng gầm hú như phong ba bảo táp lướt nhanh của 2 chiếc phản lực cơ A37 nhào xuống lượn lên với những trái bom thả xuống quanh bải tóe lửa khói trong tiếng nổ “ ầm ầm “ như một bản hợp xướng sống động với âm thanh rùng rợn làm người nghe có thể chết giấc cho những ai yếu bóng vía. Trong giây phút đầu xuống bải đáp với lửa đạn bom rơi, tôi vội vàng đảo mắt nhìn xung quanh để tìm kiếm các toán viên. Thủy đang nằm sau bụi cỏ gần bên mé phải của tôi chỉa súng hướng về bìa rừng. Ts. Đợi cách xa tôi chừng 10m về trái, Ts. Sanh cách 5m phía sau lưng tôi, tất cả chỉ có 4 người nhảy xuống bải, còn Phong và Thoại ngồi giữa máy bay nên chưa kịp xuống thì máy bay bị trúng đạn phòng không của địch và cố gắng bay lên cao. Những tiếng đạn bom liên tục nổ từ Cobra và A37 bắn thay nhau yểm trợ, cùng B40 của địch bắn ra hướng Tổ A đang nằm nổ chát tai làm chúng tôi chẳng biết hướng nào có địch. Nằm giữa bải sau các lùm cỏ sậy chẳng có một mô đất che chở thân mình, chúng tôi chỉ biết hướng súng về rừng để mong nhìn thấy địch mà bắn trả lại thôi. Nhìn Sanh bò đến bên trái của tôi rồi vội vàng đưa ống nghe của máy PRC 25 cho tôi. Nhanh tay tôi cầm lấy áp sát vào tai và nghe tiếng hối hả của Liên Toán Trưởng Đ/U Lê Đình Vủ : H.ồ.n.g H.à , Hồng Hà đây là Vương Vủ. Hồng Hà, Hông Hà đây là Vương Vủ anh nghe được trả lời …. Mắt nhìn đăm đăm vào rừng, tay trái cầm ống nghe, tay phải cầm súng với ngón trỏ luôn dán sát cò súng Car 15. Tôi thì thầm: Hồng Hà nghe Vương Vủ 5/5. Tiếng máy khè khè trong ống nghe lại vang: Gia đình Hồng Hà cứ nằm tại bải để Zu Lu xuống cứu. Tôi chưa kịp trả lời lại Đ/U Vủ, thì bất chợt từ hướng rừng trước mặt Đợi và tôi cùng Thủy, nghe tiếng hét la lớn trộn lẩn trong tiếng nổ của súng đạn bom, tiếng được tiếng mất: N.. à..ng S.. ố n , R.. ố ..ng …h .. ế t. ( hàng sống chống chết ). Theo sau những tiếng la hét ‘ hàng sống chống chết ’ với âm giọng như là của người Thượng hay Miên Lào là những tràng đạn AK bắn về hướng chúng tôi. Tiếng đạn nghe ‘x..í..u xíu ’ làm cày xủi đất bụi bay lên quanh mình. Ba họng súng Car 15 của tôi, Đợi và Thủy cùng lúc nhả đạn khi thấy những tên địch từ rừng chạy nhào ra hướng Đợi và chúng tôi đã đốn ngã được 3 tên địch làm mấy tên còn lại phải nằm xuống. Tiếng Đợi nho nhỏ vọng từ xa: Em bị thương rồi anh Hậu ơi. Không chần chừ, như một bản tính tự nhiên tôi đáp lại để Đợi đủ nghe: Cố gắng lên em, anh Hậu không bỏ Đợi đâu. Tôi quay đầu về phải định nói Thủy bắn yểm trợ giúp tôi bò lên chổ Đợi đang nằm để kéo Đợi xuống gần Sanh băng bó vết thương. Tôi thì thầm: Thủy, Thủy. Không nghe tiếng trả lời, thấy Thủy vẩn ngồi yên mình hơi nghiêng, lưng dựa vào chiếc ba lô còn đeo trên vai. Tưởng Thủy không nghe, tôi liền vói tay lắc nhẹ chiếc balô: Thủy ..Thủy. Lần nầy Thủy vẩn im lặng nên tôi mới biết Thủy đã đi vào cõi chết từ lúc nào mà tôi chẳng hay. Thủy chết trong tư thế súng vẩn cầm tay, người hơi nghiêng và lưng tựa vào chiếc ba lô mang đầy gạo sấy 7 ngày ăn, như đang thả hồn ngắm nhìn rừng núi Tam Biên vào một buổi sáng đẹp trời …   Tôi vội vàng lấy súng Thủy ra và đưa Sanh bắn yểm trợ để tôi bò lên kéo Đợi xuống. Vừa bò đến nơi Đợi nằm, thấy cây súng Car 15 bị gãy ngang và máu bên đầu gối chân phải của Đợi đỏ sẩm cùng bụi đất trộn lẫn. Chưa kịp kéo Đơi, tôi nghe tiếng ‘ p..ì..n..h , pình ’ từ hướng sau lưng  Ngoái đầu về sau, tôi thấy một chiếc trực thăng từ trên cao bay chúi mũi xuống vội vàng nơi chúng tôi đang nằm trong tiếng ầm ầm bom đạn bắn thả yểm trợ để cứu chúng tôi.   Tôi và Sanh hối hả xốc Đợi lên sàn máy bay. Chưa kịp leo lên thì máy bay đã từ từ bay lên cao, tôi và Sanh nhanh chân đứng trên càng chân máy bay để bò lên sàn trong khi máy bay từ từ ra khỏi bải. Oái ăm thay ! trong lúc vừa bay lên cao thì người xạ thủ đại liên của trực thăng đã bị trúng đạn bị thương nặng. Từ trên cao của trực thăng, tôi nhìn xác Thủy mờ dần trong tầm mắt, xa dần, xa dần … sau những tảng mây trắng, như màu khăn tang che phủ một vòm trời của rừng núi Tam Biên vào một ngày buồn … Ngồi đánh những dòng chữ nầy để thuật lại giấc ngủ dài của Thủy ở rừng núi Tam Biên, anh Hậu xin hương hồn Thủy hảy cảm thông, thứ tha cho anh Hậu không thể đem xác em về được với gia đình của em. Cầu xin ƠN TRÊN cho Hương Hồn của em Thủy được vô NƯỚC TRỜI. Lê Văn Hậu Cựu T/Úy Trưởng Toán 723 Nhờ giúp : 1/ Ai biết cựu TS. Ngô Quang Đợi và gia đình của cố TS. Đào Hồng Thủy hiện nay ở đâu xin vui lòng cho Hậu biết tin : 716 825 2978 . Rất cám ơn . 2/ Người phi công trực thăng bay xuống bải cứu Tổ A tên là Trung Uý Du . Tôi chưa bao giờ biết mặt và một lần gặp để nói tiếng : Cám Ơn ANH .

TH/U LÊ VĂN HẬU DCT 72
TẠ ƠN ANH
NHỮNG NGƯỜI CỨU TOÁN 723

Anh Mẫn thân thương

Ở nước Mỹ, hằng năm vào tuần lễ thứ 3 của tháng 11 có một ngày Lễ lớn  tên là Thanksgiving Day, tiếng Việt Nam gọi là Lễ Tạ Ơn, để tưởng nhớ đến sự cứu giúp của người Da Đỏ đã chỉ dẩn cách thức trồng trọt và trị bệnh cho những người da trắng từ Âu Châu qua đây khai khẩn lập nghiệp, mà trong buổi đầu đã gặp nhiều khó khăn trong mưu sinh và bị bệnh tật về thời khí.
 Đây là một ngày Lễ rất có ý nghĩa mà các gia đình Mỹ ấm vui quây quần bên bàn ăn, với con gà tây nướng thơm phức vàng rụm cùng cụng ly với con cháu bạn bè, nhân ngày nghĩ Lễ dài để về đoàn tụ thăm gia đình.
  Hòa nhập vào đời sống với những đìều hay của Đất Nước Mỹ, gia đình Hậu hằng năm cũng nướng con gà Tây, nấu  thêm vài món ăn để có bửa cơm chiều ấm cúng với các cháu, và nhắc nhở nhớ đến sự giúp đở cưu mang của người Mỹ trong lúc gia đình đi tìm Tự Do vào ngày 20 tháng 7 năm 1993 để lánh xa bầy khỉ đứt đuôi qủy dữ cộng sản vô thần Việt Nam.
   Ngẫm suy cảm phục trước sự biết ơn nghĩa của một dân tộc Mỹ qua ngày Lễ Tạ Ơn hằng năm. Còn mình thì sao đây? Có biết ơn nghĩa trong đời không? Hay chỉ là phường bội ơn, ăn cháo đá bát như câu nói trong dân gian VN ta : “ cứu vật, vật trả ơn, cứu nhân, nhân trả oán ’’.
 Không! Con tim của Hậu vẫn còn rung động trước nghĩa tình đồng đội, nên lắm lúc những hình ảnh vắng mất của đồng đội và những ân nhân cứu đời mình cứ chờn vờn trong tâm trí và luôn nuôi hy vọng có ngày sẽ tìm gặp lại. Cũng vì vậy, mà Hậu đã trăn trở nổi niềm qua Video ‘Đêm Hội Ngộ’ và bài “Đào Hồng Thủy- Người ở lại Tam Biên ” để mong tìm lại những người anh em.
  May thay! Với sự kiên tâm trong ‘niềm tin’ Hậu đã tìm lại được Huỳnh Cẩm Sanh vào năm 2007, là một người đồng đội đã bị thất lạc trong chiến trận vào năm 1973. Và hôm nay, như một phép lạ. Cơ duyên đã đến, lại đến trong mùa Lễ Tạ Ơn, đó là một sự vui mừng thỏa lòng nhất khi tìm được phi hành đòan của chiếc trực thăng cứu đời Hậu và bán tổ A/723 tại một bãi tử thần trong vùng Tam Biên vào buổi sáng đẹp trời  cuối mùa đông năm 1971. 

     Anh Mẫn ơi!
 Thật oái ăm, như một truyện phim trinh thám. Những người Hậu đi tìm bấy lâu nay, có ai ngờ đâu, lại là người đã từng ngồi bên nhau cụng ly, chụp hình trong tiệc cưới con trai  “ Rước Dâu Bằng Xe Bò” của Hậu mà nào có biết. Người phi công có tên là Du và phi hành đòan trên chiếc trực thăng ấy Hậu chẳng biết mặt mủi ra sao, nhưng hình ảnh mường tượng ấy luôn in đậm trong đầu, qua mấy chục năm nay theo bước chân thăng trầm của cuộc đời Hậu nay đã được gỉai tỏa. Nhờ nhân duyên từ một cú điện thoại của một người xa lạ ở Cali gọi đến Hậu, sau khi anh ta đọc bài Đào Hồng Thủy - Người ở lại Tam Biên trên Cánh Thép mà ai đó mới đưa lên đăng lại. Anh cho biết có người em đã tử trận tên Nguyễn Minh Chánh có lẻ học chung cùng khóa HSQ với Đào Hồng Thủy và anh ta muốn tìm hiểu về NKT. Ngưng điện thoại, Hậu vào trang web Cánh Thép trong mục Chuyện Đời Lính và thấy có một anh góp ý nói Phi Công tên Du có lẽ ở Phi Đoàn 239. Những dòng chử góp ý ngắn ngủi ấy đã làm Hậu rung động, liền vội vàng gởi email đến group NKT để nhờ ai đó biết thì xin xác nhận đúng sai. Từ đó, Hậu được email của anh Mẫn tóm gọn câu chuyện của 40 năm về trước mà sao thấy qúa trùng hợp với câu chuyện của mình. Sau vài email qua lại kiểm chứng thì Hậu đã thấy. Thấy được những người đã cứu đời Hậu mà trong đó có anh Phạm Minh Mẫn, Huỳnh văn Du, Trần Phát, Trần Ngọc Đảnh như những Thiên Thần trên chiếc trực thăng cảm tử đã nhào xuống vội vàng trong lửa đạn để cứu 3 chàng Lôi Hổ đơn độc đang chống trả địch quân trên bãi tử thần.
  Nếu ngày đó không có chiếc trực thăng cứu tinh của Phi Công Du liều mạng xuống cứu chúng tôi, thì hôm nay Hậu đâu còn ngồi gõ những dòng chữ nầy để gởi đến anh, và gia đình Hậu sẽ tuyệt dòng khi đã có 4 anh em ruột độc thân đã ngũ yên trong nghĩa trang Biên Hòa, và làm gì có hai đứa cháu nội Quân- Hưng ngày nay…
   Định mệnh đã đưa đẩy để hôm nay Hậu tìm gặp được những người cứu Hậu và bán tổ A 723.  Tiếc thay ! Hậu chưa nói được một lời cám ơn với anh Du thì anh đã gĩa từ cõi trần gần 10 năm nay rồi. Tuy nhiên, bằng mọi gía, khi Hậu biết được địa chỉ ngôi mộ của anh ỏ đâu tại WDC thì gia đình Hậu sẽ đến đó để thắp nén hương Tạ Ơn Anh, và nguyện cầu hương hồn anh an vui trong Cõi Trời Cao. Còn anh Trần Phát ở Vancouver-Canada và anh Trần Ngọc Đảnh ở Austin – Taxas Hậu đã gặp trên điện thoại với niềm vui khi nghe tiếng nói của  những người ơn trong đời mình.

  Anh Mẫn ơi!
Bốn người trên chiếc máy bay trực thăng cứu đời Hậu và bán tổ A 723, thì có 3 người ở Mỹ, chỉ còn mình anh ở lại Việt Nam. Có lẻ định số an bài  để anh mang sứ mạng đón những người anh em thất lạc trong núi rừng Tam Biên, mà hiện nay có Huỳnh Cẩm Sanh đang ở gần bên anh và khá đông các anh em của Đoàn 72 nữa. Nhờ vậy, anh em mình đã gặp nhau vào năm 2010 rồi. Nhưng! hôm nay mới đúng thực sự gặp nhau sau 40 năm tìm kiếm.
    Ngày 22 tháng 11 là ngày Lễ Tạ Ơn của người Mỹ. Cũng như mọi năm, Hậu sẽ có bữa tiệc Tạ Ơn của Gia Đình tại đây, và đặc biệt năm nay sẽ có thêm một mâm cơm nữa để Tạ Ơn Anh ở Việt Nam. Lẽ ra Hậu phải có mặt, nhưng vì những trở ngại cách xa nửa vòng trái đất, nên Hậu không thể có mặt được. Mong anh Mẫn cảm thông. để nhờ anh làm một mâm cơm nghĩa tình , cụng ly với tất cả anh em Đoàn 72 còn đang ở lại bãi đáp. Và Hùynh Cẩm Sanh sẽ thay mặt Hậu để nói lời Tạ Ơn Anh đã cứu chúng tôi ngày ấy.                        
             Xin Tạ Ơn Anh
                   Hậu Lê 
 Tháng 6 năm 1972  Tai nạn PHĐ  PHƯỚC (mực) SƠN (mập) CHÍNH (tiều phu) HẢI ( ruồi). Câu chuyện này Tr/u Dương  Ngọc Như và Tr/u Võ Văn Còn biết chi Tiết.
     Buổi sáng chúng Tôi từ Phú  Bài,  được lệnh quay về Đà Nẵng làm việc , về đến ĐNG thì  được biết cần hai chiếc vô Quế Sơn đi trước , còn lại hai chiếc nghe Briefing  vô sau ,   Lúc đó Tôi  bay chung với Tr/u  Như  , ở lại vô sau  khi nhận lệnh song suôi chúng Tôi bay theo , lúc  dĩ  trong vô Tuyến nghe Sơn Mập  la lớn ,    Phước out…. Phước out Tr/u  Như hỏi  out là cái gì Sơn mập la tiếp Phước …out rồi ,Tr/u  Như tức quá  gắt lớn lên Đ.M … Out là cái  gì ?   Lúc đó Sơn mới nói Phước bị bắn chết trên máy bay rồi , Tr/u  Như  ra lệnh  Bay về đi… ,  Rồi tất cả quay trở về , Khi Tr/u  Huỳnh Tấn Phước ( Phước mực ) bay  low leval qua điện bàn,  vào quế Sơn,  hai bên đường là những đồi dốc trống trải,  không có cây cối dọc theo bên đường  , phía trước có 11 người phụ nữ bụng  có bầu , đang quang gánh đi trên đường , khi máy bay Tr/u  Phước gần đến nơi , họ bỏ quang gánh xuống,  biến thành súng bắn thẳng vào máy bay, một viên đạn quái ác  , đả trúng thẳng vào trán Tr/u  Phước , Anh chết tốt , không dẫy dụa , vì vậy Th/u  Trần Ngọc Sơn ( Sơn mập ) mới ở Mỹ về bay chuyến đầu tiên, chụp  syclic   và colective , kịp thời bay ngược trở lại , cả  hai mevo và gunner không kịp phản ứng gì .  Thi hài Tr/u  Huỳnh tấn Phước được đưa về Tuy Hoà nơi quê hương của Anh .
          Cũng trong tháng 6 năm 1972 Tai nạn PHĐ  Đ/u H. DU Tr/u PHƯƠNG HƯỚNG   HẢI  ( RUỒI ) Anh H.Du và Phương biết chi tiết . Buổi chiều PHĐ Anh Du  bay từ khu vực cây số 17 Huế, vào hướng Tây  của cây số 17 , gần nơi Anh Phương bị bắn và chạy thoát về .Khi đang bay Anh Du thấy thấp thoáng có người , vội nhào xuống bắn,  nhưng không ngờ ở dưới bắn trả cũng nhu Anh Phước Mực, mevo HƯỚNG  bị bắn chết ngay trên máy bay.
     Trong tháng 6 và tháng 7 năm 1973 , có vài kỷ niệm cũng cần nên nhắc  , một lần PHD  Tr/u  Trần Xuân Thọ Th/u Nguyễn Văn Tiều Phạm Minh Mẫn  và  gunner  Trần Văn Nô , sau khi bay từ Baston về , khi bay ngang trường nử  sinh Đồng Khánh , các nữ sinh vẫy tay chào , Anh Trần Xuân Thọ , một phi công  rất hiền tư và rất khiêm tốn,  chợt nổi hứng , Anh vòng lại xuống thấp ,  từ từ bay qua cổng trường , Trường  nữ sinh đồng khánh là một trường kiến trúc theo lối Tây,  những dẫy  nhà đều hai từng,  lợp ngói , một dẫy hình chữ L, một dẫy chư I  nằm ngang theo cổng trường . máy bay  vừa qua cổng trường vào giữa hai dẫy nhà , thì bất ngờ  , thấy giây điện giăng ngang hai giẫy  nhà , không kịp  , Anh Thọ   càn  bừa , giây điện  hai đầu tường  đứt , lửa hai bên mái nhà sẹt.. sẹt lên , các nữ sinh chạy tán loạn ở dưới , bất chợt Hạ Sĩ Trần Văn Nô la lên   điện giật chết tôi rồi ,  trong khi đó Tr/u  Thọ qua khỏi giây điện , Anh lại phải chồm lên mái nhà  , hai  dẫy  nhà rất khít nhau , khó có thể chui ngang hay soay sở gì được , Phi cơ nhẩy chồm  qua được mái nhà, lại gặp một sa Tô Đô nước  , bầu nước rất cao trước mặt , ngay lối nhà của Ong Ngô  Đình  Cẩn  ,Tr/u  Thọ cũng may mắn vượt qua được ,  trong lúc đó giây điện vẫn lòng thòng trên máy bay , nó cứ bay phất phơ , Tôi chạy qua chú Nô xem có việc gì , rồi nghĩ ra , nếu điện giật Chú  Nô , sẽ giật hết cả PHĐ rồi , vì sợ  quá  chú Nô la hoảng lên vậy thôi , lúc đó mọi người mới phì cười , Anh  Thọ bay đến núi Ngự Bình đáp máy bay xuống ,   tắt máy ,  tất cả xuống tháo  giây điện còn dính trên phi cơ  , lấy cỏ lau vết trầy trên máy bay để phi tang , núi  Ngự Bình  chỉ có lưa thưa cỏ thấp , ngoài ra không có cây cối gì cà , đúng là núi trọc , tôi bất giác nhớ câu  NÚI  NGỰ BÌNH , KHÔNG CÂY , CHIM NGỦ ĐẤT SÔNG HƯƠNG , VẮNG KHÁCH , ĐĨ LA TRỜI …! .(Anh THỌ và TIỀU còn nhớ không)
     Một chuyện nữa càng  đáng  nhớ hơn,  hôm đó tôi đi với  Tr/u Nguyễn Xuân Bách , các PHĐ hôm đó bắn được cá  chép to  , rồi cùng nhau nhậu tại cây số 17 , đến chiều về , mọi người cũng ngà say ,  Th/u Đặng Chí Thông  thấy Tr/u  Bách có vẻ say muốn bay về ,nhưng Tr/u  Bách không đồng ý  , Anh cứ bay theo quốc lộ ,  Low leval theo mặt đường ,   gặp bụi tre bên  đường  , Anh chỉ kéo  nhẹ  lên , nghe bộp một cái , rồi cứ thế  uốn máy bay theo  đưởng cong cũa cuốc lộ  mà bay, thật tình mà nói Anh bay rất đầm và rất êm , Tôi  rất yên chí , khi về đến Phi Trường Phú Bài , Anh  nhẹ nhàng cho may bay rất êm thắm vào ụ , bước xuống máy bay , Anh một tay cắp nón , một tay vung vẩy , nghiêng ngả , miệng cứ lẩm bẫm Bách bay mà… Bách bay mà… Bách bay mà.. cứ thế cho đến khi về tới phòng,  quăng mình  xuống giường, lăn ra ngủ không còn biết gì nữa, Thì ra  bay êm  là do quáng tính và ông thần men bay  . Chứ  Anh có biết gì đâu , Lúc bấy giờ  Tôi mới giật mình , chân cẳng tôi bước không muốn nổi , rụng rời tay chân,  Tôi thật tình không uống mà say ..(Anh Bách chắc không nhớ nổi rồi)
     Tháng 8 năm 1972 Tôi còn nhớ hôm đó biệt phái Phú Bài và bay chung với Đ/u Huỳnh Văn Du , nhận lệnh thả một toán về hướng Tây của Dạ Lê ,khi thả xong Đ/u  Du bay ra khỏi dẫy núi,  phía ngoài là đồng bằng , được lệnh bay vòng chờ ,cho  đến khi Team báo vô sự thì mới được về , Khi vừa bay ra phía ngoài , Tôi chợt thấy một người đi dưới đám cỏ xanh , Tôi cầm vội Interphone , định báo Anh Du thì không thấy đâu nữa , chỉ thấy một  cục  đá  nhỏ nằm lẫn lộn dưới cỏ , Tôi hiểu ngay là người  ngụy trang , rồi tôi lưỡng  lự không biết có nên báo Anh Du không , vì báo cho Anh Du biết lập tức phải bắn, mà không báo thì lương tâm của một người lính  cứ cắn rứt , Tôi nhớ lại Mẹ Tôi có  dặn ,trong  những lần đi phép về Saigon  , Con cố gắng tránh đừng giết  người nghe con , và máy bay cứ bay vòng chờ , một vòng , hai vòng , ba vòng …. Cứ mỗi vòng gần đến nơi tôi lại lưỡng lự , rồi lo lắng , hồi hộp … và cứ thế càng bay đến gần tim tôi càng muốn nhẩy vọt ra ngoài , Rồi Tôi nghe trong vô tuyến nói Sơn Ca gọi Đại Bàng , nơi đây không có chim hót . Thế là cuộc vòng chờ kết thúc  , Tôi thấy thật nhẹ nhõm , khi về đến Phú Bài , chạy về phòng tắm rửa xong , lập tức Tôi chạy xuống Câu Lạc Bộ , một mình nốc một hơi hai chai bia trái thơm , để tưởng thưởng cho chính lương tâm tôi.
      Ngày 08 tháng 11 năm 1972  Tai nạn hai PHĐ  Tr/u HOÀNH Th/u PHƯỚC ( cao) ĐỨC HOÀ   & Tr/u HIỆP Th/u ĐỨC LỘC ĐỨC .  Tai nạn này Anh  Trần Ngọc Thạnh là Leader biết rõ .
       Buổi chiều sau một ngày làm việc căng thẳng, các PHĐ từ cây số 17 trở về  Biệt đội tại Phi  trường Phú Bài,  khi về tới Phi trường , bay dọc theo TT.HL  Đống Đa về hướng  đông ,bay  Phọc  ma sông đến đầu phi đạo, brếch phải đáp xuống, nhưng vì chiếc sau bay quá sát , nên khi nghiêng cánh  hai chiếc đã chém nhau , rơi xuống ngay tại đầu Phi Đạo , Tám  người trên hai chiếc máy bay,  chỉ còn Tr/u  Dương Văn Hoành là bị thương nặng, được cứu sống .
     Sau tai nạn này , Th/t Phố chia người đi báo hung tin cho gia đình thân nhân các nơi , Th/u Đặng Chí Thông cùng  Gunner Nguyễn Thiện Trí  về Saigon, đến nhà Anh Nguyễn Thành  Phước ( cao )báo tử  theo địa chỉ Th/t  Phố cho , nhưng bất ngờ khi đến nhà Th/u Phước  , Anh Thông trông thấy chỉ có một bà cụ già đơn côi trong nhà , Anh Thông phân vân không biết nên báo làm sao, bà cụ hỏi Các cháu đến có việc gì , Anh Thông chần chừ rồi cũng quyết dịnh phải báo Cháu xin lỗi bác , cháu đến để báo cho bác một tin buồn là… Anh Phước  đã tử nạn máy bay tại Phi Trường Phú Bài Bà cụ hốt hoảng một lúc , rồi ngồi thừ ra than thở Trời ơi !… Nó mới  từ giả đi sáng nay , mà bây giờ nó  đã chết rồi Anh Thông hốt hoảng … Khi nghe bà nói vậy , vì tai nạn sảy ra hôm  qua  , Th/u  Phước thì mới rời nhà sáng nay, bây giờ phải làm thế nào đây, Anh xin lỗi bà cụ Thưa Bác có lẽ con nhầm lẫn, để con đi hỏi lại , bác có chắc là Anh Phước mới rời nhà sáng nay không Bà nói Nó mới đi sáng nay mà Bà đợi con một chút Anh Thông nói vậy , chay ra ngoài đường thuê  điện thoại , gọi về Phi Đoàn gặp  Th/t  Phố , Anh Phố  hết hồn , xem lại địa chỉ biết là báo lộn ,Phi Đoàn cũng có quá nhiều Phước , lại sàng Sàng  ngang nhau.Anh Thông trở lại xin lỗi bà cụ ,  Phi Đoàn cho nhầm địa chỉ  , Bà nói hay là thấy  Tôi già già yếu rồi tội nghiệp muốn dấu , Anh Thông phải xin lổi nhiều lần bà mới yên chí, Anh Phước bị tai nạn Tôi quyên mất họ , chỉ biết gọi là Phước cao  , còn Anh Phước báo lộn là Anh Phước có trán trợt , hơi hói,  thấp người .
     Cuối Tháng 02 năm 1973 vào khoảng 28 hoặc 29 Tết Nguyên Đán  PHĐ Đ/u PHƯỚC ( zango) TIỀU CHÍNH HỒNG . Anh Phước và Tiều nhớ rõ.
     Gần Tết Anh Phước dược cử ra Phú Bài , Tăng cường cho biệt đội , trên đường gần đến Lăng Cô ,Anh Phước có ý định tìm vài con nai hoặc heo rừng , về ăn Tết , Anh vòng theo con sông nhỏ gần Lăng Cô tìm thú , bất ngờ thấy Địch quân treo cờ và tắm dưới sông , Anh Trông thấy ba người , hai dàn ông và một phụ nử , đang bơi dưới sông , Anh vòng lại , hai người gần bờ chạy kịp , chui vào bụi mất dạng , còn một thanh niên trẻ tuổi , đang ở giữa sông , không thể bơi vào kịp , nên lặn xuống , ở trên máy bay nhìn xuống sông thì trông thấy tận đáy, vì vậy cậu ta có  lặn thế nào cũng nhìn thấy, vì mệt cậu ta trồi lên để thở , Anh Phước lấy skit dí đầu cậu ta xuống , vài lần mệt quá , Khi Anh Phước ngoắc tay lên bờ , cậu ta lên ngay , khi đáp lại gần để quan sát , bất ngờ Chú Gunner Phạm Văn Hồng  nhẩy tụt xuông ,  lôi đầu cậu ta lên máy bay , vì quá sợ , nước làm tụt mất quần , đưa ra bộ phận sinh dục nhỏ xíu, nó  biến mất chỉ còn bằng đầu đũa . Chú Hông lấy mền  đem theo công tác, quấn vào người cho  cậu  ta , PC bay thẳng về Phú Bài . Lập tức xe bít bùng bên Dạ Lê , chạy qua mang quần áo cho cậu ta, đưa lên xe về Dạ Lê.
     Sau đó về đến phòng nghỉ  Mevo,  Lại Công Chính chửi chú Hồng một chập , vì chú Hồng quá hấp tấp nhẩy xuống , trên máy bay không ai kịp phản ứng , lỡ có bề gỉ thì làm sao báo cáo đây. Sau đó Tr/t  Nguyễn Văn Nghĩa cũng gọi chú Hông vào la rầy , .. Sau vụ này Phi Hành Đoàn được thưởng 50 ngàn đồng  để mừng xuân , Rồi Anh Phước lại tiếp tục tìm thịt về ăn Tết , và Anh bắn  được một con heo rừng , đem về  xẻ thịt chia cho Anh Em, ai muốn lấy thì lấy, Tôi xin khúc cổ và Nọng , sau đó ra chợ Phú Bài mua cải xanh , hành , tiêu nước  mắm . nước tương, gạo . Tết năm đó Tôi dùng ba cái lon Hydrolic làm dụng cụ nấu ăn , một làm dưa chua , một kho thịt đông , và một cái tôi hái lá  chè  tười mọc chung quanh nhà , nấu nước uống,  như vậy Tôi có một cái Tết  thật đầy đủ, và đúng theo hương vị Bắc Kỳ của Tôi .
     Ngày mồng 4 Tết , phái đoàn Staff của Sư Đoàn II  Không Quân , ra  ủy lạo  nhân dịp chiến công của chú Hồng , Tôi đang lúi húi nấu nước chè tươi trên  bếp điện , Chuẩn Tướng Lượng đi qua cửa sổ , bước vào phòng cùng với  Tr/Tá Nghĩa , Ong ta nói Trời ơi thằng Mẫn nấu nước lá uống hả Ong ngạc nhiên  một cách lạ lùng , Tôi giải thích cây chè tươi mọc chung quanh nhà , nhưng Ong không biết cây chè tươi là lá trà, đem phơi khô mà ông thường uống,  Ong cứ nói Cái thằng nấu nước lá . Sau này Tôi hỏi Anh Nghĩa  , làm sao Ong ấy biết Tôi, Anh Nghĩa cho biết lúc ông đi qua cửa sổ,  Ong có hỏi thằng  nào đây, và Anh Nghĩa nói tên Tôi.
     Tháng 6 năm 1973 Bộ Tư Lệnh Không Quân  Ban Quân báo , thông qua SĐ 2 KQ , qua KĐ 62  Chiến Thuật , xuống Phi Đoàn 219 , ra   thông báo, lệnh cấm đáp máy bay trên bờ Hồ Đà lạt , với nội dung như sau  ( THỜI GIAN VỪA QUA  GHI NHẬN CÓ NHIỀU TRỰC THĂNG , ĐÁP XUỐNG VEN BỜ HỒ XUÂN HƯƠNG VÀ  SÂN VẬN ĐỘNG ĐÀ LẠT , RẤT CÓ THỂ GÂY TỔN HẠI , DO TÌNH HÌNH AN NINH THỰC TẠI . NAY CẤM TRIỆT ĐỂ , VIỆC ĐÁP TRỰC THĂNG BỪA BÃI Ở BẤT CỨ NƠI NÀO,, BẤT CỨ LÝ DO GÌ , TRONG MỌI TRƯỜNG HỢP , TRỰC THĂNG BUỘC PHẢI ĐẬU TẠI PHI TRƯỜNG DÃ CHIẾN QUÂN SỰ CAM LY ĐÀ LẠT , CĂN CỨ LỆNH CÔNG TÁC PHI TRƯỜNG  DÃ CHIẾN , SẼ CẤP PHƯƠNG TIỆN DI CHUYỂN CHO  PHI HÀNH ĐOÀN. PHI CÔNG HOẶC TRƯỞNG PHI HÀNH ĐOÀN ,  SẼ HOÀN TOÀN CHỊU TRÁCH NHIỆM , SẼ BỊ NGHIÊM TRỊ THEO QUÂN LỆNH , NẾU VI PHẠM … ) vì lý do có một Th/u Không Quân ,  tên là HÙNG , sau khi học bay trực thăng ở   Hoa Kỳ về , thì phát hiện gia đình hắn ta có  dính líu với địch quân , vì vậy   bị sa thải , có nguồn tin anh ta đang bất mãn , có thể đánh cắp PC tại Đà Lạt . Lệnh này do chính Chỉ Huy Trưởng PĐ 219, đọc trước buổi họp Phi Đoàn.
     Tin tức này do Bộ Tư Lệnh  Cảnh Sát Quốc Gia,   gởi thông điệp ngày 26 tháng 01 năm 1973 ,  gởi cho Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Công Hoà , với nội dung ( HIỆN CÓ TÌNH TRẠNG CÁC PHI CÔNG THƯỜNG XUYÊN ĐÁP TRỰC THĂNG TẠI BÃI CỎ VEN  BỜ HỒ XUÂN  HƯƠNG VÀ SÂN VẬN ĐỘNG ĐÀ LẠT ,  VỐN LÀ NƠI CÔNG CỘNG Ở  THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT , HIỆN CÓ MỘT SĨ QUAN KHÔNG QUÂN, NGUYÊN LÀ PHI CÔNG , BỊ SA THẢI VÌ LÝ DO AN NINH QUỐC PHÒNG . BỘ TƯ LỆNH CẢNH SÁT QUỐC GIA TRÂN TRỌNG CẢNH BÁO , DỂ BỘ TỔNG THAM MƯU QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ KÍNH TƯỜNG , VÀ CÓ BIỆN PHÁP NGĂN CHẬN HẬU QUẢ TỔN THẤT QUÂN SỰ RẤT CÓ THỂ SẢY RA ) Từ Thông điệp cũa Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc gia , Bộ Tổng tham mưu,  đã chỉ thị cho phòng nhì , ban hành công điện khẩn mật , đến Bộ Tư Lệnh Không Quân , về đến Phi Đoàn 219 khoảng tháng 6 năm 1973 . Trong tháng này  , Tôi được thăng cấp  THƯỢNG SĨ  đăc cách ngày 01 tháng 06 năm 1973 theo QĐ số 11826/TTM/KQ/NV/TQT/TTHC/TT  ngày  30 tháng 6 năm 1973 do Trung Tướng Trần Văn Minh  Tư Lệnh Không Quân ký.
     Cũng trong tháng 2 năm 1973  hai PHĐ của Anh PHÚC (nhẩy dù) và Anh BƠ biệt phái về Saigon làm việc cho  Nha Kỹ Thuật  nơi Đ/T Đoàn Văn Nu làm Giám Đốc . hôm đó gần Tết hai Anh Phúc và Bơ , thiếu tiền tiêu trong những ngày gần Tết  ở Saigon ,  nên khi bay lên Trung Tâm Huấn Luyện  BK long Thành chờ  làm việc ,  hai Anh mỗi người một chiếc bay lên Lâm Đồng săn nai, sau khi bắn được một con nai,  hai Anh thấy chưa đủ, nên Anh Phúc cố bay về Long Khánh khu vực gần Bình Thuận săn voi, các anh đã từng nghe  các Kingbee kỳ cựu nói khu vực này có nhiều voi, Anh Phúc săn đuổi ráo riết,  cuối cùng bắn được một con voi có ngà rất dài, nhưng không lấy được định nửa tháng sau sẽ quay lại, vì quần nhiều các Anh hết xăng,  phải  bay về Lâm Đồng  đổ xăng , vì trên máy bay có chở Nai, An Ninh QĐ ở đây biết không thể nào bắt được các anh,   đã ghi số máy bay, báo cáo thẳng về Bộ Tư Lệnh Không Quân, là các Anh có chở một số người mặc đồ đen vào mật khu. Sau đó lập tức BTL KQ, cho  mời hai anh vào trình diện Tướng Tư lệnh Không Quân Trần Văn Minh, khi Tường Minh hỏi Anh Phúc thì Hai anh chối là hôm đó không bay, hỏi mãi hai anh cứ chối, Tướng Minh cười rồi cho hai Anh về.
     Khi về Đơn Vị mỗi ngày An Ninh KQ gọi lên điều tra, cứ nhiều ngày như thế, hai Anh đành phải khai thật là đã đi săn nai, bản án kết thúc, Hai Anh bị BTL.KQ giáng  xuống một cấp, Anh Phúc Trung úy xuống còn Thiếu Uy, Anh Bơ Thiếu Uy lúc đó đã lên Trung Uy, nhưng giấy chưa kịp về anh đã bị xuống Chuẩn Uy rồi. Các Anh xứng đáng nhận tội vì (ĂN VỤNG KHÔNG BIẾT CHÙI MỒM).
     Tháng 8 năm 1973 Tai nạn  PHĐ  QUỲNH LỰC XUÂN BỔN    Tai nạn này Đ/u  Đặng  Quỳnh và Tr/u  Trần Hùng  Lực rõ chi tiết.
      Hôm đó hai chiếc Gun bay yểm trợ ? …  từ Ban Mê Thuật  bay  về hướng  tây  của Băng Đông,    chiếc thứ nhất Gun 1 là Tr/u  Lại Công An và Th/u Lưu Ngọc Hoàng  chiếc thứ nhì Gun 2 là Anh  Đặng Quỳnh Trần Hùng Lực Mai Thanh Xuân Lê Văn Bổn. Khi bay gần đến đường mòn Hồ Chí Minh , thì bị phòng không 37 mm bắn lên trúng ngay vào đế cũa súng  Mini gun , cây súng bị vỡ tung , văng trúng Xuân và Bổn  làm bị thương nặng,  gẫy tay  bay trở về đến BMT  Xuân chết. Bổn được đưa về Quân Y Viện Nguyễn Huệ Nha Trang , hai ngày sau Bổn chết , Đ/u Quỳnh bị thương nơi đầu và về  Tổng Y viện Cộng Hoà diều trị , còn Lực vô sự.
     Tháng 9 năm 1973  Tai nạn PHĐ : MẠNH THÔNG MẪN TRÍ  Sáng hôm đó Trưởng phòng HQ,  cắt một chiếc bay liên lạc lên Quãng Đức,  PHĐ Tr/u Trần Hưng Mạnh , Th/u Đặng chí Thông Th/s Phạm Minh Mẫn và H/s Nguyễn Thiện Trí, Sau khi cất cánh bay khỏi NhaTrang, Tr/u  Mạnh rủ lên Đà Lạt kiếm vài con Nai đã , Chúng Tôi quần quanh hướng Bắc  Đà Lạt ,  cuối cùng bắn dược một con Nai nhỏ , Tôi bắn thêm được một con rất to và có NHUNG rất đẹp , Anh Mạnh  xuống thấp để lấy nhưng tàu cứ rung kỳ lạ , Tôi đâm lo , hỏi Anh Mạnh thì Anh cho biết Turbulance đánh dữ quá , nhưng Tôi thấy như có gì  kỳ lạ PC rung khác thường , mà Tôi không diễn tả được , Tôi nói phải có giây câu , chứ  không xuống được đâu, Anh Mạnh cứ thử vài lần, quyết định về Đà Lạt kiếm  giây , Anh Mạnh  đáp bờ hồ Đà Lạt, lúc đó một Đ/U Alo phắc, hình như tên là Dục  chạy đến ,Anh Mạnh hỏi giây , Anh ta đem giây  đến , tỏ ý muốn theo đi săn, Anh Mạnh đồng ý, Anh ta mang theo một cây M.16 , Tôi lúc đó thấy đông, xin ở lại đi kiếm mối  bán  nhung , Anh Mạnh đồng ý ngay , sau khi  Anh Mạnh bay rồi Tôi đi vòng tìm các nhà thuốc  Bắc , nhưng chẳng tìm thấy  cửa hiệu nằm ờ đâu, đành về nhà ngổi chờ ,mãi vẫn không nghe thấy tiếng máy bay, tôi đành phải vô Tiểu Khu Đà Lạt hỏi thăm , vẫn không có tin gì cả , đến chiều , Tôi đánh bạo gọi về Phi Đoàn, Nghe tiếng mừng rỡ của Anh Huỳnh Văn Phố  sao chú về được , Phi đoàn đang cho hai chiếc may bay lùng tìm , từ  sáng đến giờ vẫn không thấy Tôi nói Khi bay ngang qua Đà Lạt ,Em nói có người nhà bị bệnh Em muốn về thăm, nên Anh Mạnh đã cho Em ở lại , chiều về đón , Anh Phố dặn  tôi cứ ở lại Đà Lạt , mai có PC ra đón , vì đã chiều Tối rồi. Thông tìn từ Tôi , Phi Đoàn mới đoán ra chắc rớt gần Đà Lạt , thế là  sáng  sớm , Phi Đoàn đã chia nhau đi tìm chung quanh khu vực Đà Lạt , Nói về PHĐ sau khi bỏ Tôi ở  Đà Lạt ,Anh Mạnh câu được chú nai Nhung , sau đó còn bắn thêm được một con nữa , Trên tàu chở 2 chú nai ,khi câu thêm chú thứ ba , Tàu quá nặng nên máy bay bị mất tua, rới tại chỗ con nai thứ  ba , rồi chờ mãi không có  ai biết vị trí rơi , nên cuối cùng PHĐ đành phải dọn sạch xác nai , chờ đến sáng hôm sau, Tội nghiệp nhưng con Nai càng to càng nặng , chắc hẳn các Anh phải khó nhọc lắm mới kéo xác nai ra thật xa máy bay dược , để phi tang , Khi Phi đoàn chia nhau đi tìm quanh Đà lạt, đã thấy ngay vị trí PC rơi, khi máy bay lên câu chiếc bị rơi về ,  khi vòng chờ họ cũng phát hiện thấy xác nai , Tôi được đón về ngay sáng hôm đó . Khi về Phi Đoàn  ,bên Không Đoàn do Tr/T Đặng Duy Lạc  gọi các Anh lên khiển trách , Phi Đoàn đề nghị phạt mỗi người 4 ngày trong cấm , còn riêng Phạm Minh Mẫn được Anh Phố cho làm giấy khen thưởng , đã không chịu đi săn bắn , còn không tham gia vào cuộc chơi ,  sứng đáng được  một huy chương  Ban Thưởng Tưởng Lục Sau vài ngày Anh Phố chưa thông …bắt chú Gunner Trí vào khai thác hoạnh hoẹ , thế là chú  Trí sợ quá khai ra Anh Mẫn  sau khi bắn nai xong  đi tìm mối bán. Thế là Anh Phố tức tốc gọi Mẫn vào chửi một tăng quá xá cỡ Chú còn điếm hơn nhưng thằng điếm . nhưng rồi Anh Phố cũng bỏ qua và cũng lỡ khen thưởng rồi .

     Ngày 07 tháng 11 năm 1973 VỤ ÁN MẤT MÁY BAY TRỰC THĂNG UH.1 H  SỐ  60139
PHĐ   :  NGHĨA THU MẪN.
   Sáng sớm ngày 06 tháng 11 năm 1973 Anh Thu gặp Mẫn nói Chú về  sửa soạn  đi bay Quảng Đức  ngay nhớ mang theo đồ ngủ đêm  Tôi chộp vội bộ đồ nhái  cái mền dù và trang bị vệ sinh cá nhân cùng một bộ Domino sau đó tôi  theo Anh Thu và Anh Nghĩa ra kiểm tàu số 139   chúng  tôi lên  Quảng Đức  thăm biệt đội đang biệt phái nơi đây , Khi đến nơi Chi Khu trưởng  thuộc Tiểu Khu Phú Bổn nơi đây tiếp đón niềm nở  , phòng nghỉ biệt đội và chi khu gần nhau nhưng lại xa sân bay, từ sân bay qua một con phố xuống dốc rồi lại vòng lên đồi nơi nghỉ ngơi của Biệt Đội 219 , khí hậu ở đây ban ngày thì rất nóng nực nhưng ban đêm thì lại lạnh vô cùng , vì chung quanh toàn là núi đá , Anh Nghĩa và Anh Thu đi thăm từng nơi ở và làm việc  của Biệt Đội hỏi thăm tình hình cuộc sống ăn ở của Anh Em , sau đó  Anh muốn ở lại đêm để  khích lệ  Anh Em , Chiều xuống cái lạnh gía bắt đầu , và rất buồn tẻ ,  Phố xá không có sự nhôn nhịp  họ đều tụ tập tại nhà không muốn  ra đường và trời càng lúc càng tối chỉ leo lét những bóng đèn tròn vàng ố  không đủ thắp sáng một căn phòng , vì vậy Anh Em biệt đội chỉ ngồi bù khú trong giây lát rồi tất cả đi ngủ, nơi đây không có  giường chì có ghế bố xếp nhà binh , và đôi khi một vài Anh Em phải ngủ chung một ghế bố  vì không đủ giường bố , rất may vì trời lạnh nên ngủ chung cũng không đến nỗi  khó chịu, khoảng 10 giờ đêm khi mọi người đã ngủ thì  Chi Khu xuống báo Địch quân hăm đánh vào Chi Khu và sân  bay,  Thế là toàn bộ Anh Em biệt đội ra ứng chiến tại sân bay, Tất cả mở máy kiểm tra tình trạng PC và tắt máy nghe Tr/T Nghĩa hướng dẫn bản đồ và phương hướng bay khi gặp trường hợp oveun , sau đó ai về tàu  nấy , Còn lại ba thầy trò chúng tôi trên tàu và một Pilot tôi quên tên ngồi chơi Domino , cứ chơi như vậy cho đến sáng , ban đầu thì tôi thắng nhưng khi đến gần sáng thì Anh Nghĩa gôm sạch. Sáng sớm chúng Tôi bay trở về Nha Trang , bay một đoạn Anh Nghĩa nói Thu mày bay thử vào trong đám mây kia xem Anh Thu bay vào khoảng 5 phút , Anh Nghĩa bay ra lại và nói mày không chịu khó bay instrument sao mà bay kỳ  dậy   Rồi tiếp tục Anh Nghĩa lại nói Anh Thu bay vào trong mây, rồi Anh Nghĩa lại bay ra , mây mỏng cứ lất phất  lướt qua PC , sau đó Anh Nghĩa lại nói Anh Thu  bay vào cụm mây dầy kia thử xem, rồi càng lúc máy bay càng vào trong mây, mây mỗi lúc một sậm lại, lúc này Anh Nghĩa cầm control, và Anh nói luyên thuyên đủ thứ chuyện trên đời , Anh Nghĩa hỏi Tôi Mẩn mày thấy mây thế nào , mâuy màu gì kìa Tôi lưỡng  lự nhìn vào mây trước mặt và nói Tôi thấy mây màu hồng Tr/Tá Anh Nghĩa phá lên cười và nói Trơi ơi thằng này Vertical ( ý nói Vertigo) quá  rồi, cho mày cầm lái chắc là chết hết Anh Em , rồi anh quay qua Anh Thu cũng hỏi mây màu gì , và Anh cứ nói và tìm cách la rầy rồi chỉ dạy lung tung , rồi Anh  cứ  bay , 15 phút , rồi 20 phút, rồi 30 và Anh cứ vững tâm mà bay , PC vẫn êm ru , Anh cứ nói chuyện dần lên dến gần tiến đồng hồ trong may , sau đó Anh hỏi Anh Thu thấy ở phía dưới lờ mờ cây mày biết mình bay tới đâu rồi không Anh Trông thấy có đường ở phí dưới và nói ngay   Ở dưới là Đơn Dương  Anh Nghĩa theo  con đường đó vào đến Đà Lạt lúc 9 giờ sáng , khi đáp xuống bở Hồ Xuân Hương bên cạnh nhà hàng  Thủy Tạ  , Tôi cất các hành trang của tôi vào sau tail cone ngay chỗ oil cooler fan ,  sau đó Ba thầy trò đi vào Tiểu Khu Tuyên Đức  nhờ gởi PC nhưng không gặp Alo đai diện KQ ở đó định vào sân bay nhưng lại không có phương tiện ra …và thời tiết thì đang quá xấu vào đến  trung tâm Thị Xã Đà Lạt là giỏi lắm rồi, Chúng Tôi  trở ra lại máy bay, sau đó Anh Nghĩa rủ lên nhà hàng Mekong uống cafe  và ăn sáng , Tôi xin Anh Nghĩa cho về nhà vì nhà  Bác tôi  đối diện với cửa sau bên hông nhà hàng Mekong , thấy ngay sát bên cạnh , Anh Nghĩa đồng ý cho tôi về nhà , hẹn khi nào về Anh Nghĩa và Anh Thu sẽ gọi , Tôi ở nhà chơi và chờ  các Anh gọi về NhaTrang , nhưng mãi đến 13 giờ 30 không thấy các Anh gọi , tôi chạy qua bên nhà hàng Mekong thì không thấy các Anh đâu , Tôi sơ ý không lên trên lầu, sau đó tôi nhờ Bác tôi chở ra  Nhà hàng Thủy  Tạ chỗ đậu PC , khi ra đến nơi thì không thấy máy bay đâu cả, chạy qua chỗ sân vân động gần đó cũng không thấy , Tôi nghĩ chắc Anh Nghĩa và Anh Thu quên gọi tôi rồi , hay là không lẽ Trung Tá lại  đến nhà thượng sĩ gọi đi bay, các câu hỏi chỉ quanh quẩn vào những điều  vô lý đó , và tất cả những thắc mắc hay nghi vấn chỉ là nhưng điều vô lý mà thôi , và tôi lại lo thêm nữa là  khi Anh Nghĩa và anh Thu bay về thì đồ đạc của Tôi dấu vào sau chỗ oil cooler Fan lỡ cái mền dù hay bộ đồ nhái nó rơi ra hút vào trong cánh quạt của oil cooler thì khổ , và thắc mắc lo âu cứ thế mà dồn dập , rồi cái túi halmet đã kéo phéc mơ tuya  chưa , Thật tình lúc đó tôi rất lo sợ , không sợ Anh Nghĩa la rầy mà sợ lỡ PC có bị gì thì sao, hai Anh có sao không …Tôi quay ngay ra bến xe  đò mua vé trở về Nha Trang , trên dọc đường tôi rất là lo lắng và mệt mỏi , rồi gục trên ghế trước ngủ thiếp đi , lát sau giật mình thấy có người nắm tay tôi, tỉnh lại thấy tay mình để lên đùi một cô gái, cô cầm tay tôi nhẹ để qua đùi tôi , Tôi quê quá vội vàng xin lỗi , cô nói thấy tôi có vẻ bồn chồn lo lắng ,  cô gái  cởi mở và thật là có duyên với đôi răng khểnh  dễ thương , Tôi quên hết mọi bồn chồn lo lắng , bắt đầu tấn công cô gái , xuốt chặng đường chúng tôi đã quen nhau, khi về đến Nha Trang chúng tôi cùng đi ăn và Nàng Hường  tên cô bé đã cho tôi địa chỉ hẹn ngày  hôm sau tôi sẽ đến tìm ,

     Khi về đến trại Hàm Tử khu gia Binh của Phi Đoàn 219   lúc đó khoảng 19 giờ 30  tối  Hồng già chặn tôi lại mày có biết gì không , máy bay của mày đã bị mất cắp rồi , Tôi chỉ cười cho đây là đùa và vậy là Anh Nghĩa về với Anh Thu rồi , Tôi thấy yên chí hơn , sau đó Tôi gặp Trần Mạnh Nghiêm , nó nói  mày về Phi Đoàn ngay đi máy bay bị mất rồi , để tao chở mày vô Mọi người đều nói một cách nghiêm trang  vậy là có thật . Lúc này tôi không còn hoang mang nữa , chẳng hiểu vì sao , không thấy sợ , không thấy lo nghĩ , cứ dửng dửng như không có chuyện gì cả , vì cái từ mất máy bay hay mất cắp  máy bay nó không có trong  Tự Điển  của  HÀN LÂM VIỆN  lưu trữ trong đầu tôi , thành ra  trong đầu tôi cứ trống rỗng  như không có chuyện gì , Có lẽ chỉ số thông minh của Tôi thấp  nên không có biết  suy nghĩ và không biết phản ứng sử lý như thế nào , nhưng thật tình lúc đó tôi lại thấy mệt lả cả người , Vừa về tới trước cửa  phòng  trong trại Bắc Bình Vương  định lấy chìa khóa  mở cửa phòng  thì có hai trung sĩ  KQ nghồi trên chiếc xe Ford pickup chờ ở đó  họ lại chào Tôi và hỏi xin lỗi có phải là Thượng Sĩ Mẫn không  Ạ ? Tôi trả lời ngay Vâng Tôi đây Một trong hai người nói Chúng Tôi mời Th/S lên phòng An Ninh có việc cần Tôi vô tư trả lời Tôi mới vừa về các Anh có thể để cho Tôi tắm một cái rồi Tôi lên ngay
Nhân viên An Ninh trả lời Không có gì đâu , Th/S lên một chút xíu rồi về tắm cũng được mà mặc dù mệt mỏi Tôi cũng  phải lên xe về Phòng An Ninh. Khi lên đến phòng An Ninh , việc đầu tiên họ làm là phủ đầu tôi trước , đưa tôi vào một căn phòng 12 mét vuông , cửa sổ đóng  lại  và họ lấy ván ép đóng dằn lên phía ngoài , không có đèn điện , lát sau họ quăng vào một cái chiếu đơn và 4 cây  đèn  cầy của Em bé đốt đèn trung thu, rồi khoảng 15 phút sau  họ đứng ngoài quăng vào tiếp một cái bô nhôm, nghe một cái cảng , và cứ 15 phút họ lại mở cửa rọi đèn pin vào xem tôi có tự tử hay không , và khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ sau thì viên Đai Uy sỉ quan An Ninh tôi quên mất tên,  cho gọi tôi lên , lúc này  khoảng 10 giờ đêm thấy điệu bộ của Đ/U Anh Ninh Tôi hiểu ngay là họ làm như vậy nãy giờ là để dọa tôi và cũng là để câu giờ chờ Sĩ Quan đến để thẩm vấn tôi . Viên Đ/U nói Tôi biết Th/s chỉ là tép riu thôi như vậy không có gì phải sợ, Th/S  cứ trình bày máy bay rời Nha Trang lúc mấy giờ và đến Quảng Đức làm gì sau đó sáng  mấy giờ cất cánh và đáp xuống Đà Lạt lúc mấy giờ và gặp ai trông thấy ai , rồi đi về hướng nào ,và cứ thế cho đến lúc thượng sĩ phát hiện ra mất máy bay rồi ông ta đưa cho tôi một sấp giấy Bơ luya và một cây bút bi, Tôi cứ hí hoáy viết và kể toàn bộ những gì Tôi biết được , qua dàn bài và cách thức sắp xếp văn bản của viên Đ/U A.N , Sau khi xong viên  Sĩ quan điều tra đọc lại rất cẩn thận , rồi đọc lại cho tôi nghe sau đó nói là sai chưa đúng , bắt tôi khai lại và tờ kia ông cất đi , cứ như thế nhiều lần… Sau cùng Điều Tra viên nói Bây giờ Th/S suy nghĩ kỹ máy bay đáp tại Đà lạt quay đầu về hướng nào và từ máy bay ra đường là bao xa , có nhìn vào nhà hàng thủy tạ không và nếu nhìn thì thấy gì, sau đó Th/S bước ra đường nhìn thấy ai đi về hướng nào, và Họ mặc áo gì , Th/S có thấy người mặc áo  Pardessus   màu xám đầu đội nón nỉ đen không , và người này quen với Tr/T Nghĩa như thế nào. Bước chân Th/s dài bao nhiêu 9 tấc hay 1 thước  , cho là 1 thước đi vậy từ đường cái Th/s đi dược 15 hay 20 bước có nghĩa la cứ  đi được 20 thước th/s nhìn về đâu và đang suy nghĩ gì lúc đó mấy giờ thấy ai , cứ tuần tự như thế mà kể cho đến cầu ở đầu bờ hồ
     Và theo lời ông ta tôi lại viết, càng viết lại càng viết lại cứ như vậy cho đến ba giờ sáng , tay tôi không còn viết được nữa  chữ CH thì viết chữ H chông lên chữ C . nó cứ cứng cái tay lại lúc đó Đ/U điều tra viên mới cho tôi nghỉ , và đưa về phòng giam, Trong lúc đó Anh Nghĩa và Anh Thu khi đến nhà bác Tôi gọi đi về thì Bác Tôi mới nói Nó ra chỗ đậu máy bay không thấy máy bay đâu cả , nó sợ các Ong bỏ nó nên nó đi xe đò về Nha Trang rồi Lúc đó Hai Anh hết hồn và rất lo âu sau đó nhờ Bác Tôi chở vô Phi Trường  Cam Ly  bằng xe LaDalat vẫn không thấy sau bác Tôi đưa hai Anh về Tiểu Khu Tuyên Đức  Đà Lạt hỏi thăm tế nhị vẫn không ra  và Hai Anh Quyết định Trình Diện  Tiểu khu báo cáo sự việc và nơi đây Phòng An Ninh Tiểu Khu  đưa  Hai Anh về Phòng An Ninh  Không Quân  Nha Trang   ngày 08 tháng 11 năm 1973 , Nơi đây không giam giữ hai Anh , và hai Anh  Nghĩa & Thu ở  nhà , nhân viên điều tra đến tại  nhà làm việc . Tôi bị giam như vậy lúc đâu tưởng về ngay  nên tôi nhờ bạn đưa vào cái dù  thả trái sáng để làm mùng , nhưng rồi vừa nóng lại vừa ngộp Tôi cứ lấy thuốc lá đục thủng từ từ , lúc đầu lỗ nhỏ và ít, sau lỗ lớn  lại to , cuối cùng thì có nó cũng như không vì chỗ nào cũng  có muỗi , còn ăn uống thì mỗi  bữa  nhờ nhân viên An ninh mua hộ một ổ bánh mì và một bịch nước mía , còn bạn thì chẳng thấy ma nào bén mảng đến nữa , họ sợ liên lụy chăng , hay là phòng  An Ninh không cho vô thăm ,An bánh mì mãi cũng không thể nuốt nổi , mà Phòng An Ninh không có quy chế  ăn   uống, Tôi phải tự túc nhờ mua ở ngoài, tưởng hết chịu nổi thì sau một tuần lễ , Họ lại mời Thiếu Tá Thu vào ở chung với tôi , lúc đó họ mới cho hai cái giường sắt vào phòng , rôi họ đóng cửa lại , lát sau viên Đ/U diều tra Tôi vào xin lỗi Thiếu Tá  thông cảm , tôi phải đóng cửa lại Anh Thu tức giận nói Thiếu tá cái gì, tao là thằng tù Đ/U An ninh trả lời Lệnh trên chứ tôi đâu dám Anh Thu nhẩy chồm tới Tao là thằng Tù mày có ra ngoài không ?
Thế là viên Đ/U nhẩy ra ngoài và từ hôm đó ngày đêm không đóng cửa, Rồi Chị Thu mỗi bữa  mang vào hai phần cơm cho Anh Thu và cho cả Tôi nữa , Chị Thu còn làm một lon gigo đậu phộng  da cá cho Anh Thu nhưng Anh Thu không thích ăn , nên giao cho tôi xử lý nó , hai thầy trò được đi lại hay ra ngoài sân hóng mát thoải mái. Tất cả những lời khai của Anh Nghĩa , Anh Thu và Tôi được đối chiếu xong suôi Phòng An Ninh chuyển gấp hồ sơ của chúng tôi về Tư Lênh Không Quân Trung Tướng Trần Văn Minh xét duyệt sau đó chuyển lên Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu , khi xem xong Tổng Thống bác lời khai của chúng tôi , thế là thầy trò chúng tôi phải khai lại và cứ thế khai đi rồi khai lại đến lần thứ ba Tướng Tư Lệnh Không Quân Tuyên bố nói Ong đã duyệt theo hệ thống Quân giai nếu Tổng Thông còn bác  nữa là  đã không tín nhiệm ông Thì Ong sẽ từ chức , Đồng thời lúc đó Tổng giám Mục Nguyễn Văn Bình can thiệp yêu cầu Tổng Thống xét lại cho lúc đó Ong Nguyễn Văn Thiệu mới chịu duyệt .  Và đến hết tuần thứ hai họ lại đưa Anh Nghĩa  lên phòng An Ninh làm thủ tục xong họ giải cả Ba thầy trò chúng Tôi ra  Đại Đội 24  thuộc Quân cảnh Tư Pháp Nha Trang .
     Quân cảnh Tư Pháp Nha Trang là một giẫy nhà kiến trúc theo kiểu Pháp cất dã chiến,  những  phòng làm việc  thì bừa bộn , thiếu tiện nghi, hồ sơ để lung tung , nhưng cách làm việc có vẻ chuyên môn hơn trong phòng An ninh Không Quân Nha Trang , Khi chúng Tôi đến nơi Một Đại  Uy Chấp Pháp lấy cung chúng Tôi từng người một , và không như trong A.N  KQ họ hỏi theo thứ tự lớp lang và họ ghi chép chứ không  để cho chúng Tôi tự ghi chép , và họ viết lại theo giọng  điệu của chúng Tôi , Anh Nghỉa vô làm việc trước sau đến Anh Thu và cuối cùng mới đến Tôi , khi họ làm việc cùng Anh Nghĩa xong họ mời Tôi vô đối chứng câu nói của Anh Nghĩa  , trước mặt Anh Nghĩa Ong Ta hỏi Tôi Thượng Sĩ có thể cho chúng Tôi biết , Th/S Nghĩ như thế nào Khi Trung Tá Nghĩa nói với chúng Tôi là ( Tôi ra Lệnh cho thuộc cấp đi chơi ) Tôi im lặng một vài giây xong trả lời Đ/U cũng là một quân nhân , vậy chắc hẳn là Đ/U biết cấp trên ra lệnh thì thuộc cấp phải thi hành, Theo Tôi  khi cấp trên đã ra lệnh  đúng sai tôi vẩn phải thi hành  , còn sau khi thi hành xong thì vấn đề sai mà hợp lý với Tôi thì chẳng bao giờ khiếu nại làm gì , Chấp pháp viên có vẻ không hài Lòng vì câu nói của Tôi gắt lên Thượng sĩ ra ngoài đi sau đó mời Thiếu Tá Thu vào tiếp tục làm việc , Anh Ta lấy cung rất là lâu nên Tôi có hơi bồn chồn, và có vẻ buồn buồn ưu tư , Anh Nghĩa thấy vậy nói này cái thằng chết nhát ,có ai khai cho chú đâu mà vẻ  mặt lo lắng và lo sợ vậy hả . xem  Anh  đây này , sự nghiệp , địa vị , danh vọng , vợ con … mất hết mà  Anh có lo lắng điều gì đâu, mọi việc đã  sảy ra rồi , thì việc gì đến cũng sẽ đến, có lo lắng cách nào thì nó cũng phải đến vậy thôi , rồi việc lấy cung của tôi cũng kéo dài đến chiều , xong họ sắp xếp chỗ nghỉ ngơi cho chúng Tôi , vì ở nơi đây chỉ có phòng tạm giam , mà phòng tạm giam thì toàn là lính  TRỜI  ƠI không thôi , nào là sì ke , ăn  cắp , hiếp dâm , đào ngũ , đánh lộn  vân  …vân… mà phòng tạm giam thì chỉ là cái cũi làm bằng vỉ sắt Phi trường  chung quanh trống trơn mái cũng bằng vỉ sắt , nếu mưa thì cứ  chịu trận vậy thôi .và  vì  không có chỗ giam chúng Tôi nên buộc lòng họ nhường ba giường sắt  của họ cho ba thầy trò chúng tôi nằm , còn họ nằm dưới đất , sau năm ngày đúc kết hồ sơ thụ Lý của chúng Tôi  , họ đưa Anh Nghĩa vô Quân Lao còn  Anh Thu và Tôi được cho về , Lúc này mới nhớ ra cô Bé Hường mà Tôi mới chỉ nắm tay trước đó 20 ngày , Tôi lục tìm địa chỉ mà Em đã cho Tôi , Nó đã thất lạc mất rồi , Tôi tiếc ngẩn người , đã đánh mất một nàng thật dễ mến và  đáng yêu .

     Vài ngày sau Tôi vào Quân Lao Nha Trang thăm Anh Nghĩa , Anh trông thất Tôi nói ngay Thằng chết nhát … mày vô đây làm  gì , họ bắt nhốt mày vô đây bây giờ , Anh  tư  thế thật ung dung tôi đưa cho Anh Quyển  PAPILON ( Người Tù Khổ Sai ) , Anh phì cười khi thấy tựa đề cuốn truyện… và Anh kể cho Tôi biết ngày Anh vô đây gặp một tên  Đại Bàng trong Tù  khi hắn  biết Anh là Phi Đoàn Trưởng 219 ,hắn  kính phục Anh ngay , vì hắn  cũng là một quân nhân, và hắn ta  đã nghe về nhưng huyền thoại 219 đồng thời  ngoài đời Anh Ta là một tay Anh Chị khét tiếng ở Nha Trang  và Anh Ta cũng có một đôi lần đụng độ với những kẻ lì lợm của 219 khi  PĐ 219 chưa về Nha Trang vào những năm 1968 1969  , Và hình như Anh ta là kẻ chém lầm vào tay Anh Châu Lương Cang  tại Bar số 1, Khi gặp Anh Nghĩa Hắn ta nể phục ngay , và ra  lệnh cho đàn Em phục vụ Anh Nghĩa  trong mọi tình huống , và  nhu cầu Anh muốn , Anh ta tuyên bố với đàn Em  Đây là một Đại ca giang hồ Trí thức của Anh ta . Sau này một tháng hay vài tuần Anh đều được về phép do Anh Đặng  Duy Lạc và Chuẩn Tướng Lượng  bảo lãnh.
     Khi vào thăm Anh Nghĩa ,  Lính  bào vệ  Quân Lao đòi tôi phải trình căn cước Quân Nhân, lúc đó Tôi mới biết là từ ngày nhập Ngũ lên đến Thượng Sĩ mà không hề nghĩ đến làm căn cước quân nhân . Từ lúc đó tôi mới về Phòng Nhân Viên Không Đoàn  Yểm cứ` Nha Trang  lúc đó là Trung Tá Lê Trọng Hiệp  Quyền Không đoàn trưởng KĐ.YC. NTG xin làm căn cước , PNV đòi hỏi Tôi phải có căn cước dân sự mới được làm , vì là Hạ Sĩ Quan cần phải có song song hai căn cước Quân nhân & dân sự . Khi Tôi trình căn cước dân sự thì họ nói CC này không hợp lệ vì đả đổi mẫu mới từ nhiều năm nay  rồi, thế là Tôi lại phải ra Cuộc Cảnh Sát ở Đường Nguyễn Hoàng Nha Trang , Nơi đây  Họ  cho biết hiến pháp bắt buộc mọi công dân của nước Việt Nam Công Hoà  phải có lược giải cá nhân khi chưa nhập ngũ , và phải có căn Cước để chính Quyền theo dõi mọi lý lịch Công Dân , và cũng thuận tiện điều tra  tội phạm , và đã quy định toàn dân phải thay đổi căn cước mẫu mới , ai  không tuân theo quy định của  luật pháp sẽ bị truy tố . Chính vì vậy họ giải tôi ra quân cảnh tư pháp, Một lần nữa Tôi lại có duyên với Quân Cảnh Tư Pháp Nha Trang , lần này thì khác hơn lần trước , Tôi không được ưu đãi mà họ đưa Tôi thẳng vào cũi  vỉ sắt , không có nước  , làm vệ sinh tại chỗ , ăn uống   thì theo tiêu chuẩn cao nhất nước , ngày hai lần một sô cơm không và một sô nhỏ nước mắm , nói là nước mắm cho lịch sự ,  chứ thật ra nước trà pha với muối , chén bát tự túc, Tôi không thể nào ăn theo kiểu này được, nhưng những quân nhân phạm tội ở đây họ ăn rất ngon lành, hàng ngày có Quý và Nghiêm mang thức ăn đến cho tôi, đúng ra họ chỉ làm việc với Tôi qua loa là cho về ngay , nhưng hình như họ muốn giữ Tôi lại để làm áp lực  vòi  tiền Anh Thu , Có lẽ Anh Thu vào báo cho Anh Nghĩa và Anh Nghĩa dứt khoát không để cho Anh Thu bị chúng nó làm áp lực , vì vậy sau một tuần không làm gì được chúng phải thả Tôi ra . Qua vài ngày tại Quân cảnh Tư Pháp , vì Tôi chẳng có tội nên ban ngày họ đưa tôi lên văn phòng làm việc nhờ Tôi đọc những bản án cho họ  đánh máy , qua đó tôi biết được rất nhiều Quân nhân nhất là  địa Phương Quân hay phạm tội hiếp dâm . Sau khi trả Tôi về đơn vị , vài tuần sau tôi nhận sự vụ lệnh về thặng số trại SỐNG MỚI ở Tân Sơn Nhất  với lý  do Thặng số chờ  Tòa , và ngày đi có ngày về thì không.
Về đây họ không giam như nhưng quân nhân khác, họ cho tôi làm nhiệm vụ đi liên lạc với các  đơn vị  Cảnh Sát các Quận trong Saigon  tìm hiểu các Quân nhân Không Quân phạm tội,   đến  tháng tư  năm 1974 họ trả tôi về  đơn vị ,  và cho đến  tháng 5 năm 1974  Anh Thu và Tôi được Tòa  An  Quân sự mời ra làm việc , và mọi sự lại khai như ban đầu , sau đó ngày 12 tháng 07 năm 1974   Anh Thu và Tôi được  trát  tòa gọi ra Trình diện , khi vào phiên tòa chánh An   chủ tọa của Tòa An Quân sự  là Đại Tá TỪ DƯƠNG , Ong cho hỏi Anh Thu trước là có bà con họ hàng với Anh  Nghĩa không và chỉ hỏi như vậy , tiếp đến Tôi ông cũng chỉ hỏi như thế mà thôi , sau đó họ mời Anh Thu và Tôi ra ngoài không cho dự phiên tòa kết tội Anh Nghĩa , Chúng Tôi hiểu  đây là sự tế nhị của Tòa An không muốn cho thuộc cấp thấy cấp chỉ huy của mình bị  kết tội , sau gần một  giờ  đồng hồ luận án , Tòa cho mời tất cả nhân chứng và Can phạm ra trước sân cờ ngay trước cổng để tuyên án . Trước tiên Tòa An cho làm lễ chào cờ  dàn nhạc Quân đội Trống kèn đã xếp hàng dài trước sân cờ họ mặc lễ phục màu trắng và những đai tay bụng chân bằng da màu trắng , nhạc quốc thiều  trổi lên  châm dứt là  giấy phút hồi hộp và căng thẳng đã đến….Đại tá Từ Dương đọc bản án  Xét vì ….. Tr/T Nguyễn Văn Nghĩa đã can tội trái lệnh mà Quân luật đã ra …. Xét vì ….. Tr/T  Nguyễn Văn Nghĩa đã làm Tổn thất về Quân sự …Nay với Bản An Trung Tá Nguyễn Văn Nghĩa can Tội VI PHẠM HUẤN LỆNH QUÂN SỰ  theo bản án số….  Của TTM/QĐ.VNCH/ T.A QS. NTG. Ngày…… Toa Tuyên án ….. Tới  đó  Đ/T Từ Dương  ngừng lại và Một hồi Trống quân hành ….  CÀ …THÙNG …CÀ…THÙNG …CÀ …THÙNG… nghe tiếng  trống làm  tức ngực người nghe và thật tình Tim tôi muốn nhẩy ra ngoài, tiếp đến giàn kèn Quân nhạc trổi lên tiếng kèn kêu như thúc quân rầm rộ , càng nghe càng hồi hộp , rồi cả hai kèn và trống đồng hoà nhạc kéo dài 15 phút . Đ/T Từ Dương tiếp tục tuyên án Tr/T  Nguyễn  văn Nghĩa bị kến án tám tháng tù ờ bắt đầu kể từ ngày Tr/T bị bắt giam và dàn nhạc lại tiếp tục trổi lên , lần này sao tôi nghe hay và có vẻ vui  mừng hơn , mọi người lại chúc mừng Anh Nghĩa vìa Anh đã ở trong quân Lao  9 tháng rồi qúa  thời gian tòa kết án . và từ đó anh về nhà luôn.
     Sau này tôi được biết người đánh  cắp máy bay là Th/u Hồ Duy Hùng  một Phi công đã được đào tạo tại Texas Hoa Kỳ  cùng khóa với Trần Văn Sua của PĐ 219 sau khi Anh ta về VN thì Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia điều tra ra gia  đình  Anh ta theo địch Quân và Bộ Tổng tham mưu QĐ.VN.CH do Đại Tướng Cao Văn Viên  Tổng tham mưu trưởng QĐ .VN.CH  chỉ thị BTL.KQ sa thải Anh ta  ngày 31 tháng 12 năm 1971. Anh ta lấy máy bay và bay về Dầu Tiếng cách Cà Tum khoảng 5 hoặc 6 cây số khi bay tới mật khu Anh ta bị bắn rấn nhiều và rất may nhờ có Arrmor  tấm giáp chắn đạn đã cứu nguy cho Anh ta .
     Năm 1974  trong năm này  không ai cắt Tôi đi bay nữa chỉ trực tại Phi Đoàn vì vậy không nhớ những Tai nạn say ra năm  1974 , còn Tại Phi Đoàn lúc đó Anh  Huỳnh Văn Phố lên Quyền Phi Đoàn trưởng  sau hoán chuyển với  Phi Đoàn trưởng Phi Đoàn 253 ngoài Đà Nẵng  là Anh Th/T Phạm Đăng Luân , Anh Luân trở về PĐ219 giữ chức vụ Phi Đoàn Tưởng  Anh Th/T Huỳnh Xuân Thu Phi Đoàn Phó  Anh Trần Ngọc Thạnh Sỉ Quan Huấn Luyện và Anh Phạm ngọc Sâm Trưởng Phòng Hành Quân , buổi đầu Anh Sâm cắt bay không  để ý đến sự trùng hợp Tên Tuổi nên có vài việc buồn cười như Anh cắt bay một Phi Hành Đoàn đi biệt phái Ban mê Thuật  Anh ghi Trên bảng PHĐ  BƠ ĐƯỜNG XẢ CẢI  ( Phan Công Bơ  TPC Lý Bổn Đường HTP Mevo Hồ Văn Xả Gunner Lê Văn Cải ) thế là mọi người một mẻ cười vì nguyên PHĐ toàn đồ ăn không sợ đói . Sau Anh lại cắt bay một PHĐ cũng bay BMT sáng ra các Anh thấy PHĐ này đều rụng rời tay chân , và không Anh nào chịu bay cả KIỆT LỰC QUAN TÀI ( Võ Tuấn Kiệt TPC Nguyễn Hùng Lực HTP Mevo Nguyễn Văn Quan Gunner Nguyễn Văn Tài ) Anh Sâm  phải cắt lại PHĐ khác  các Anh mới dám bay.
     Cuộc chiến đấu với Đặc Công  tại Phi Trường L.19 One five five  ( Chờ  các Anh có mặt trong mặt trận này  Bổ Sung ) 
      Phi Trường  one five five là  một phi trường L.19 và sở dĩ gọi là Phi trường One five five  là vì nó nằm về hướng 155 và chỉ có một số kỹ thuật biệt phái  nơi đây  còn lại bảo vệ phi trường  , Hình  như là Địa phương Quân chứ không phải là Lính Bảo An .  Phi trường nằn song song với đường quốc Lộ đi Pleiku. Ngay cổng vào Phi Trường  mở ra nhìn về hướng  rạp chiếu Bóng gần bùng binh và Nhà Thờ , Vào Cổng bên phải là Đoàn truyền Tin và Khu gia Binh của Bảo Vệ Phi Trường  Đối diện  cổng  vào băng ngang Phi Đạo là Bãi đậu trực thăng  chiếm gần nửa đoạn dài Phi đạo , bên cạnh Bãi đậu trực Thăng là Câu  Lạc Bộ và những dẫy phòng nghỉ của Kỹ thuật và Biệt Đội trực Thăng  những dẫy này nằm thẳng góc với Phi Đạo , chung quanh Phòng nghỉ là những hàng rào bao bọc  băng lưới chống B.40  cổng ra nằm cuối Phi đạo  chính vì vậy nơi đây thiết kế không có lối thoát, NV.PH  muốn ra chỗ đậu TT phải đi hết một đường Phi đạo , hệ thống phòng thủ ở đây rất lỏng lẻo và không chuyên môn , thiếu kinh nghiệm tác chiến.
      Đầu tháng ba  năm 1975  Biệt Đội 219 gồm 7 Phi Hành Đoàn 3 Gun + 3 Slick và một C&C Nhân viên Phi Hành Tôi Không nhớ thứ tự và quên cũng nhiều gồm : Anh Huỳnh Xuân Thu Biệt Đội trưởng Anh Lâm Hồng Son , Trần Văn  Sua , Lại Công An, Võ Văn Còn , Quách Ngọc Thao , Nguyễn Ngọc B , Nguyễn Văn Be , Nguyễn văn Tiều , Phan Công Bơ , Đặng Quân ,Dương Đức Hạnh , Vũ Kim Long  ( Long nhí ), Trần ngọc Sơn . Mevo có Thảo , Vẹn , Ngọc , Phúc  quên 3 mevo và Gunner   Thân Ngọc Hải Quên mất 6 Gunner.
   Bảy  PHĐ này  biệt phái lên Ban Mê Thuật trực tai sân bay 155 để PC và nghỉ ngơi tại đây  và làm việc cho  Đại Tá Quang Tư Lệnh Sư Đoàn 23 và  Đại  Tá An Trung đoàn 53  Đến ngày 10 tháng 03 năm 1975 là ngày hết nhiệm kỳ công tác , ngày hôm đó Phi Đoàn 215 phải lên thay thế , Nhưng Ong Phạm Bính Không Đoàn Phó Không Đoàn 62 Chiến Thuật  vì thấy chiến cuộc đang sôi động và Ong ta cũng  xuất thân từ Phi Đoàn 215 , Ong Ta đã  quyết định bắt Phi Đoàn 219 phải ở lại chiến đấu thay thế cho PĐ215.
     Sáng Hôm đó ngày 10 tháng 3 năm 1975 Một chiếc Slick chở Đ/T Quang đi thị sát vòng  đai bảo vệ Thị Xã gồm những đường Giao Thông hào chống tăng  của  Công Binh làm , sau đó Họp các Trung Đoàn Trưởng  tại Quận Đức Lập  về  những phương An phòng thủ, sau đó PC về  đáp Gia Nghĩa  (Quảng Đức), đến 15 giờ  thì Sư Đoàn điều một C&C và hai Gun cất cánh về Quận Đức Lập để xạ Kích và yểm trợ Quân bạn , Lúc đó Quận Đức Lập và căn  cứ Núi Lửa  gần đó đang bị pháo kích  dữ dội , và Địch quân đang tràn lên tấn công  Hai chiếc Gun là Còn , Tiều bay Gun 1 và Gun 2 không nhớ  chiếc C&C thì chỉ nhớ Mevo  Nguyễn Phương Thào và Gunner Thân Ngọc Hải. Lúc C&C bay trên cao quan sát thì Phòng không 37 mm bắn phía hông phải khoảng 30  trái nở Hoa trắng như Pháo bông  giăng hoa đầy trời chung quang chiếc C&C Trưởng Phi cơ hạ độ cao về phía bên trái , lập tức một đợt Pháo Bông 37 mm nữa  nổ đuổi theo phía đuôi tàu, Sau cùng về đáp tại Quảng Đức an toàn. Đến 17 giờ Đức Lập bị Over run Địch Quân đã tràn ngập  nơi này. Và tất cả PHĐ bay trở về BMT ngủ đêm .
     Khoảng 2 giờ sáng rạng ngày 11 tháng 03 năm 1975  thì Địch Quân bắt đầu pháo kích Phi trường 155 tất cả chạy ra hầm trú ẩn , Một hố cá nhân có Mevo Thảo và Dương Đức Hạnh , còn tất cả chui vào hầm trú ẩn một giờ sau Thì phòng thủ Phi Trường  báo  là  Đặc Công của địch đã xâm nhập vào bên trong  , lập tức  Các Anh Em Phi Hành ra khỏi hầm trú ẩn nhận súng  M.16 , lúc đó Gunner T.Hải đang mặc đồ lót vội chạy vào phòng ngủ lấy quần áo và cây súng M.16 chạy ra thì bị một trái  Beta  nổ ngay bên cạnh khoảng 2 mét , không bị thương T.Hải chạy về Hầm trở lại  và nhìn về hướng Câu lạc Bộ nới Đặc công từng tốp 3 đến 4 tên  cởi trần mặc quần đùi chạy vào phía đó , bắt đầu sảy ra một cuộc chiến Không Quân 219  đánh bộ kéo dài đến gần sáng thì Phe ta bị một trái B.40 bắn trúng miệng hầm , phía sau là H.Son, Quân và  Quách Ngọc Thao  cả ba bị thương nặng do sức nổ làm cho đá  và Bê tông bắn tung toé T.Hải nằm sát đất  cách 4 mét nên chỉ bị một mảnh đá nhỏ  vào đầu, làm máu chảy rất nhiều . Gần sáng thì Anh Em PH rút ra sát hàng rào ranh giới giữa Phi Đạo và Phòng Nghỉ  nhẩy xuống giao thông hào cố thủ , Lúc 4 giờ sáng thì  Long Nhí và Mevo Thảo  cắt rào chạy ra PC bay về An Toàn có lẽ Trong lúc này Anh Thu và Hạnh , Vẹn  cùng  nhiều người nữa   cũng bay về thì Phải. Long Nhí và Thảo chở thêm 5,7 người lính bộ binh về đáp tại Thành (Nha Trang)  cho họ xuống .Sau đó Anh Sua cũng bay về Anh vừa cất cánh thì một chiếc Chinook bị bắn cháy  gần cổng PT . đến 5 giờ sáng thì hai chiếc Tiều , Bơ và Sơn Mập bay về an Toàn . Lúc đó Đặng Quân đang bị thương nặng rủ T.Hải bay về nhưng Hải không dám và Anh Đặng Quân đã cất cánh an toàn nhưng vì bị thương nặng nên mất phương hướng Anh đã rớt gần cầu 14.và vĩnh viễn rời xa Đồng Đội Sáng ngày 11/03/1975. Từ đó  trời gần sáng nên địch   quân thấy rõ và từng chiếc Pc bị địch quân  bắn B.40  nổ tung  không còn một chiếc nào , vì thế NV.PH 219 đành phải nằm chờ sáng tìm phương cách thoát thân. Đến sáng A.37 bay lên đánh chung quang phi trường tới trưa , Phòng không của địch quân bắn như mưa nhưng không trúng chiếc nào . Lúc Đó Đặc công nằm im có lẽ đã bắn hết đạn và chỉ có ít người nên không dám tấn công , họ chờ chủ lực của họ đến . Đến chiều thì tất cả cắt rào kẽm chui ra phi đạo lúc đó Quách Ngọc Thao bị thương rất nặng , phải khiêng anh băng qua Phi Đạo  chạy qua  dẫy Truyền Tin  và nhờ họ  bắt liên lạc về Không Đoàn nhưng Ông Bính  từ chối cho tàu lên rước , và  vì thế Anh Quách Ngọc Thao ra đi mãi mãi trước khi Anh ra đi có nhơ Anh H.Son mang tất cả giấy tờ tùy thân  và kỷ vật   của Anh về cho gia Đình , tất cả còn lại quyết định phá rào để ra ngoài vì xe Tăng địch quân bắt đầu tràn vào phi trường  Lúc này không hiểu sao Nguyễn Văn Be lại bị bắt và Anh đã vĩnh viễn không thấy quay về, riêng Anh H.Son và T.Hải người băng đầu người băng vai nhặt  quần áo dân đi bộ ra cổng chính , sau đó trà trộn vào với dân đi về hướng Phước An , lúc đó PHĐ đánh bộ còn lại 7 người  gồm H.Son, An , T.Hải , mevo Phúc , Mevo Ngoc và hai người nữa quên  tên , Tất cả quên máy bay đi chân đất ăn chay bằng khoai mì nướng và ngủ màn trời chiếu đất , tất cả tiếp tục đi đến ngày thứ hai  có gặp một  đội  Trực Thăng , Anh Lại công An bắn Pen gun nhưng Đoàn trực thăng không thấy và họ bay về hướng BMT .
     Đến chiều ngày thứ Ba ngày 13/03/1975  đi bộ đến đồi 62 thì đường  bị  đắp mô , đoàn dừng lại chờ Bộ Binh mở đường  lúc đó  là 16 giờ , Các PHĐ đánh bộ  mua được  thịt Heo của dân , trước khi họ di tản họ mổ heo bán ,và  nhặt nồi niêu kho thịt nấu cơm cho bữa chiều . Anh H.Son rủ T.Hải leo lên đồi Trại đóng quân Bộ Binh  xin băng bó lại vết thương , vì vết thương Anh H.Son nơi vai có nặng . Gặp lính gác của tiểu Đoàn Bộ Binh và Xin gặp Tiểu  Đoàn Trưởng  để xin liên  lạc  về Nha Trang , và thật may mắn Thiếu Tá tiểu đoàn trưởng lại là bạn thân của Anh Phạm Đăng Luân  nên Ong ta  gọi Bác Sĩ băng bó lại cho Anh H.Son , Lúc đó T.Hải ở ngoài phòng truyền Tin và nghe Anh Luân hỏi Tiểu Đoàn Trưởng  Chỗ mày có an toàn không , Tao vừa bị  SA.7  làm hết một chiếc tại BMT Rồi Anh Luân cho máy bay lên ngay . T.Hải vui mừng  chạy xuống báo nhỏ với Anh Em KQ đánh bộ  cho hết thức ăn đi và   có Xếp đến rước , Tất cả KQ  đánh  bộ vội vã lên đồi , và đúng lúc Tàu vừa đáp , tất cả về Nha Trang đêm đó . Chấm dức cuộc chiến của những chàng Phi Hành  đánh  bộ ăn chay nằm đất. Và cũng đúng ngày đó  Anh Hùng đế cũng vĩnh viễn ra đi cùng với ba đồng đội.
           Ngày 13 tháng 03 năm 1975  Tai nạn cuối cùng của Phi Đoàn 219  PHĐ : HÙNG HẠNH NGHIÊM ÂN   ( Đ/U Lê Thế Hùng ( Đế) Th/U Dương Đức Hạnh Th/S Trần Mạnh Nghiêm HS Nguyễn Văn An )Thi hành Phi Vụ Hành Quân số B.093 Xạ Kích và yểm trợ cho Trung Đoàn 53 của Đại tá ÂN tại chiến trường Phụng Dực  Ban Mê Thuật , Lúc đó Anh Hùng đế bay Gun 1  Anh Còn & Tiên bay Gun 2  còn hai Sick là  Nhu bay Slick 1 &  Long bay  Slick 2   còn một chiếc Air cover ở phía bên trên là Anh Phạm Đăng Luân PĐT 219 , Vào lúc 17 giờ 10 Anh Hùng bay vào Toạ độ AQ.895.015 gần trại Biệt Kích B.50  thì bị hoả lực Phòng Không  SA.7 của địch quân bắn trực xạ  máy bay gẫy làm đôi , bốc cháy và nổ tung  tiêu hủy 100% Phi Hành Đoàn đều tử   trận  không lấy được xác. Anh Luân ra lệnh toàn thể  Phi Cơ phải bay về vì cố gắng cũng không thể nào vào được , và Các Anh Đã Hy Sinh rồi .
     Đến cuối tháng 3 năm 1975 một số Phi Cơ Từ Phù Cát và Pleiku di tản chiến thuật về Nha Trang  sau đó vì sự di tản của máy bay Fixwing  Hoa Kỳ làm  rối loạn các Anh Phù Cát và Pleiku nên các Anh bay về saigon , Sau khi các Anh rời Nha Trang thì các lực lượng kỹ thuật và một  số  Quân Nhân không phi Hành hoang mang đã theo máy bay C.119 và  C.123 về saigon, lúc đó tình hình các Anh Em Phi Hành  của 215 cũng như 219 bị lay chuyển và các anh đã bay về TSN .
     Khi về đến TSN Phi Đoàn được cấp phát quân trang mỗi người một bộ , và cho tạm thời  đặt văn Phòng  219 tại một căn phòng nhỏ 24 mét vuông bên cạnh Câu Lạc Bộ Mây Bốn Phương  Trời .
      ĐẾN ĐÂY KẾT THÚC NHỮNG  HUYỀN THOẠI  CỦA PHI ĐOÀN 219 LONG Mà MÀ QUÂN ĐỘI ĐỒNG MINH GỌI HỌ LÀ KINGBEE